Vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã
nhiều tuổi nhưng sống một thân một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương,
bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà kinh ngạc kêu lên: -
"Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!". Bỗng bà cảm
thấy rùng mình khi đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Từ đó bà có mang. Đủ
ngày tháng, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng
bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không
biết nói biết cười gì cả.
Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta.
Giặc Ân rất hung hăng tàn ác, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân vương, hình
dung cổ quái dữ tợn. Chúng nó đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp
của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi.
Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm bậc tướng
tài để giúp vua cứu nước.
Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng.
Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con,
liền bảo đùa con rằng:
- Con ơi! Con của mẹ chậm đi chậm nói làm vậy, thì
biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!
Không ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng:
- Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!
Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa
sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người đổ tới, ai nấy cho là một sự
lạ. Sau cùng một người nói:
- Ta cứ đi mời sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì.
Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhà nhìn
thấy chú bé Gióng liền hỏi rằng:
- Mày là đứa trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến để làm gì? Gióng trả lời
rất chững chạc:
- Về bảo với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một
thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc dữ cho!
Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là
thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu vua. Nghe nói, Hùng Vương
mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và
nón như lời xin của
chú bé. Mọi thứ rèn xong nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào
thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi
cách chở đến cho chú bé Gióng.
Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp
đến làng, mẹ Gióng sợ hãi
chạy về bảo con:
- Con ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi.
Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi, biết làm thế nào bây giờ?
Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói:
- Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!
Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên
được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần
ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn
thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên khỏe
mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi
kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu rượu, hoa quả, bánh trái
đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu, Gióng ăn vợi hết bấy nhiêu, mà vẫn đòi ăn không nghỉ. Sau
đó, Gióng lại bảo tiếp:
- Mẹ kiếm vải cho con mặc.
Người ta lại đua nhau mang vải lụa tới may
áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt một cách kỳ lạ, áo quần
vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối
thêm. Không mấy chốc
đầu Gióng đã chạm nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa,
gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người
bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm:
- Ta là tướng nhà Trời!
Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt,
tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và
dân làng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên, phun thẳng ra đàng trước
một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng
chục con sào, rung chuyển cả trời đất. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn
trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung
lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa
thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói bụi mịt mù,
tiếng la hét kêu khóc như ri.
Nhưng tướng giặc Ân
vương vẫn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây
giặc nằm ngổn ngang đầy rừng. Bỗng chốc gươm gãy. Không bối rối, Gióng thuận
tay nhổ những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng
trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán khắp nơi, Ân
vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông
ra trói nghiến chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Lúc
bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc-sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ
nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.
Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh
hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng thiên
vương.
Ngày nay chúng ta còn thấy dấu vết những
dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim-anh, Đa-phúc cho đến Sóc-sơn, người ta
bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa
thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa
đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày
nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).
Xem thêm các truyện khác tại đây:
Truyện 116. Thánh Gióng
KHẢO DỊ
Truyện trên chắc xuất phát từ một thần
thoại xa xưa, vì nghệ thuật thần thoại trong đó còn khá rõ nét. Về sau truyện Thánh Gióng còn được nhân dân một số địa
phương vùng Bắc-ninh, Bắc-giang phát triển, thêm thắt, ghép vào một số tình
tiết hoặc thần kỳ hoặc không, làm cho câu chuyện phong phú hơn. Ví dụ:
Sau khi thắng trận, Thánh Gióng đến một
nơi, buộc ngựa sát vào hai cọc đá lớn ngồi nghỉ. Ngày nay một cột đá còn thấy ở
làng Cựu-tự cao khoảng ba thước vòng rộng sáu tấc, xâu thẳng xuống một bệ đá tự
nhiên hình bầu dục. Ngựa sắt mệt quá sủi bọt mép thành một bãi cát trắng xóa
lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Bãi này nay thuộc xã Ngọc-xá, huyện Quế-võ, đặc biệt ở cách xa bờ sông, người
ta gọi là Bạch-nhạn-sa.
Hoặc Thánh Gióng đi qua một làng nọ ven
sông Cầu, ở đây có một bà lão bán nước vối. Thánh Gióng dừng lại xin nước uống.
Bà lão dâng bầu rượu. Uống xong, Thánh Gióng khen bà lão có lòng tốt, đặt tên
là làng Bầu và dặn lúc nào hạn, cho phép cầu mưa sẽ linh nghiệm. Từ đấy, mỗi
khi đại hạn, ở đây (nay gồm bảy làng gọi là tổng Bầu) có hội cầu mưa, người ta
thường rước thành hoàng làng lên Sóc-sơn để xin nước. v.v...
Sau đây là một số dị bản truyện Thánh
Gióng, những dị bản này đều mang hình thức thần tích.
1 Thạnh
tướng quân. Đời Hùng Vương, ở
làng Yên-việt có hai vợ chồng hiếm con. Một hôm chồng lên núi, được thần Núi
(Sơn thần nhạc phủ) báo mộng cho đá đất làm con (do mẹ đá thụ thai đã ba năm).
Một hôm bỗng có tiếng sét nổ vang, phiến đá trong ao nhà họ tự nhiên nứt ra,
xuất hiện một em bé. Hai vợ chồng đưa về nuôi. Bảy tuổi chưa biết nói.
Bấy giờ có 50 vạn người Man cầm đầu là Lục
Đinh thần tướng sang chiếm nước ta, thế rất dữ dội. Vua Hùng được thần mách,
sai "xá nhân" đến Yên-việt cầu tài. Lúc đó em bé đang nằm trên
giường. Người bố vỗ vào em nói: - "Nước nhà có giặc vua sai xá nhân đi
tìm, sao không dậy giúp nước còn ngủ mãi ư?". Thạch tướng - đứa bé - nghe
nói, bèn đứng dậy mời xá nhân vào, rồi bảo về nói với vua làm cho một voi đá
cao mười trượng cùng lá cờ thiên đế, sẽ dẹp xong giặc. Vua cũng sai thợ đá tạc
như lời yêu cầu. Được voi và cờ, em bé vươn cao mười trượng, mặt đỏ như mặt
trời mọc, nhảy lên voi cầm cờ có quân sĩ theo sau. Quân Man hồn kinh phách tán,
xô nhau chạy trốn, tướng của chúng bị chém làm ba đoạn.
Thắng trận, Thạch tướng quân trở về làng
rồi cưỡi voi lên trời.
2. Lân Hồ đô thống đại vương. Một người đàn bà không chồng ở làng Đồng-
bảng một hôm vào rừng kiếm củi bỗng nghe một tiếng hổ gầm, tâm thần chuyển
động, có mang mười bốn tháng sinh một trai, đặt tên là Lân Hổ, cao một trượng,
có sức khỏe hơn người.
Bỗng có giặc từ phương Bắc tràn xuống tàn
phá đến vùng Bạch-hạc. Vua nhà Trần xuống chiếu cầu bậc có tài dẹp giặc. Lân Hổ
ứng mệnh bảo sứ tâu vua rèn cho mình một ngựa sắt, một roi sắt để ra trận. Được
mọi thứ, Lân Hổ nhảy lên mình ngựa đánh cho giặc tan tành. Vua Trần ban cho tám
chữ: "Nam phương chính khí, Bắc khấu hàn tâm" (Chính khí phương Nam
làm cho giặc Bắc lạnh vía). Ông không nhận quan tước, chỉ trở về quê nuôi mẹ.
Mẹ chết rồi, Lân Hổ cưỡi ngựa đi đến xã Toàn-mỹ mà hóa.
3. Linh Lang đại vương. Đời Lý Thái Tông có cung phi tên là Thị
Sung. Một hôm đi tắm ở hồ Dâm-đàm bị một con thuồng luồng quấn vào người. Từ
đấy có mang, sinh được một người con trai trên mình có hai mươi tám vết như vẩy
rồng, trên ngực có bảy hàng châm óng ánh như ngọc. Vua dặt tên là Linh Lang,
xây nhà cho mẹ con
ở tại làng Thị-lệ trên hồ, gọi là hồ Linh Lang. Chợt có giặc Trinh Vĩnh sang
xâm lăng, các tướng chống cự không nổi. Vua nghe lời thần, sai sứ đi tìm bậc
thần nhân làm tướng. Đến làng Thị-lệ, Linh Lang đang nằm ngửa trên giường, bỗng
nói được, bảo mẹ gọi
sứ giả tới, rồi nói xin vua cha một lá cờ đỏ lớn, cán dài, và một con voi đực, sẽ dẹp yên giặc. Được mọi thứ Linh Lang cầm
cờ thét lớn: "Ta là tướng nhà trời!" rồi cưỡi voi ra trận. Voi chạy
như hay, cờ phất một cái thì giặc tan. Tướng giặc ngã lăn ra chết. Lúc trở về
bị bệnh đậu. Sắp chết, xin vua cho đem lá cờ đỏ tung lên trời hễ cờ rơi xuống
đâu thì cho lập đền thờ ở đấy. Sau đó, biến thành một con rắn bò đến hồ Dâm-đàm
rồi mất.
Người Nghệ-an có truyện Con
ngựa đất dường như cũng là
một dị bản của truyện Thánh
Gióng:
Một em bé mười lăm tuổi ăn rồi chơi nghịch
đất, thường lấy đất vắt voi ngựa. Bỗng có giặc đến xâm lăng. Không ai đánh nổi.
Nhà vua cũng phải cho người đi cầu bậc tài giỏi. Em bé sau khi gặp sứ giả bèn
lấy đất vắt một con ngựa. Vắt xong ngựa tự nhiên lớn phổng lên, biết ăn biết
chạy. Em bé bèn cưỡi lên ngựa. Ngựa chở em ra trận cuối cùng dẹp tan giặc.
Các dân tộc anh em cũng có những truyện có
nhân vật anh hùng tương tự hoặc ít hoặc nhiều với Thánh
Gióng
Trước hết là truyện của đồng bào Tày Lệnh
Trứ:
Có hai vợ chồng già hiếm hoi nghe lời đạo
sĩ bắc một trăm hai mươi chiếc cầu, cuối cùng người vợ có mang đẻ được một con
cóc. Cóc được mười hai tháng chỉ bằng nắm tay, nhưng bố mẹ vẫn nuôi. Một hôm,
có sứ giả rao tìm người tài đánh giặc. Cóc bảo bố mẹ gọi vào đòi được giúp
nước. Sứ giả đưa về triều. Tuy bé bằng nắm tay nhưng không ngựa nào chịu nổi
sức nặng của cóc, đành phải đi bộ. Đến nơi vua hỏi: - "Cần những
gì?". Đáp: - "Xin vua cho rèn một ngựa sắt cốt bằng gang ba nghìn
cân, ngoài bằng sắt hai nghìn cân, bờm và đuôi bằng lông tóc của nam nữ mười
bốn cân. Lại xin một lá cờ hiệu rộng ba sải tay". Vua chỉ cho đúc có tám
nghìn cân nên khi cóc nhảy lên, ngựa khuỵu lưng. Nhưng rồi ngựa cũng đi được.
Vua phong cóc làm tướng Lệnh Trừ, hứa sẽ gả công chúa nếu thắng. Gặp giặc, ngựa
xông vào phun lửa đằng mồm, phun
khói đằng mũi. Giặc tối tăm mày mặt,
bị lửa thiêu cháy. Thắng trận trở về, vua lần lượt hỏi ý kiến ba nàng công
chúa, chỉ có công chúa ba
bằng lòng làm vợ cóc để giữ chữ tín cho bố mình.
Đoạn sau phát triển khác với truyện Thánh Gióng. Vua dành gả nhưng sai làm một trăm
hai mươi cỗ kiệu, bắt cóc chỉ đúng kiệu nào có công chúa ba ngồi mới được lấy.
Cóc ghé vào một cái quán. Trời mưa, cóc nhảy lên dọi mái cho khỏi giột.
Chủ quán vốn là tiên, mách cho cóc biết kiệu nào có ong bướm bay lượn là đúng.
Công chúa về nhà cóc, cóc cởi lốt hóa làm chàng trai. Sáng dậy lại mang lốt
vào. Hai chị hỏi em, công
chúa ba thật thà kể lại. Người ta tổ chức bữa tiệc, công chúa ba bảo chồng cởi
lốt vào dự. Vua quan vào buồng xem lốt cóc. Vua thử mặc lốt vào, nhưng khi muốn cởi ra
thì không cởi được nữa. Thế là vua biến thành cóc. Triều thần tôn cóc làm vua.
Truyện của đồng bào Mơ-nông Dũng
sĩ mặt trăng:
Có hai vợ chồng già hiếm hoi, một hôm vợ
mộng thấy một con thỏ từ mặt trăng xuống chơi giỡn trước mặt, từ đó có mang rồi
đẻ một đứa bé. Cho là con thần linh, sợ mang họa, vợ chồng đem bỏ ở đồng cỏ,
chỉ thỉnh thoảng đến thăm. Một hôm chúa làng bắt gặp, quẳng em bé xuống suối
nhưng nó không chìm, chỉ trôi đến một nơi được bà Iă Pôm vớt về nuôi. Lên bốn,
em biết múa khiên đao. Một hôm em đứng trên một phiến đá, khấn: - "Hỡi thiên thần, hãy giúp ta
giết tên chúa làng gian ác". Dứt lời hòn đá cựa quậy hóa thành một con
ngựa trắng cao to. Ngựa cúi đầu vẫy đuôi trước mặt, tỏ ý thuận phục. Cùng lúc
ấy một bà già tóc vàng từ trên trời bay xuống bảo em đến dòng thác lấy vật báu.
Em nhìn thấy một vật sáng lấp lánh trôi bập bềnh, bèn lội xuống vớt lên thì là
một thanh gươm quý. Em rùng mình một cái trở thành một người cao lớn phi
thường, cưỡi lên ngựa, ngựa hý phi như bay, cây cối cúi rạp. Đến nơi, tên chúa
sợ, đóng cổng lại. Em múa gươm, gươm tỏa ra muôn ngàn hào quang, đốt cháy cổng,
rồi cung điện. Bọn tôi tớ xông ra đều bị ngã hàng loạt. Em giết chết tên chủ
làng, rồi lấy của chia cho mọi người, ai về nhà nấy. Lại cưỡi ngựa về chốn cũ.
Ngựa không bay lên trời mà hóa
thành đá, em ném gươm trả cho dòng thác, còn mình thì được bà chúa mặt trăng
đưa lên trời, vì em vốn là con bà.
Nguồn: “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – Nguyễn
Đổng Chi”
Comments
Post a Comment