Vào thời nhà Trần có
một người học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang. Nhà chàng không đất cắm
dùi nhưng cha mẹ chàng thì cố công cố sức làm thuê làm mướn các nơi để
nuôi con ăn học. Khi Huyền Quang đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái,
con một nhà khá giả trong vùng.
Trải mấy năm trời,
chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà vợ khá là vất vả. Cho đến ngày gia
đình sắm lễ vật xin cưới thì đột nhiên bên nhà gái trở mặt, trả lễ lại và từ
hôn. Huyền Quang lấy làm buồn lòng vì thói đời tráo trở, chàng càng đau khổ hơn
khi thấy cô gái thuận lấy người cháu họ một viên an phủ sứ.
Sau đó, cha mẹ chàng
lại tìm cho con một đám khác, nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ
vì nhà gái chê nhà trai không có mả làm nên, không phải là nơi nương tựa. Vì vậy
cho đến năm hai mươi tuổi Huyền Quang vẫn một thân một mình.
Từ khi thất vọng về
đường tình duyên, Huyền Quang lại càng bấm chí về đường kinh sử. Năm hai mươi
tuổi, chàng thi đậu ở trường thi quê nhà, rồi vào thi đình đậu luôn Trạng Nguyên.
Nghe tin Huyền Quang
đậu Trạng Nguyên, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin cho con gái đến tuổi lấy
chồng kèm theo cả một tư cơ đồ sộ. Một ông quan lớn ở kinh kỳ cũng mời quan tân
khoa về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám. Tiếp
đó, ngày chàng vào kinh bái mạng để nhậm chức, một viên quan nội giám đến gặp
riêng chàng và rỉ vào tai:
- Hoàng hậu đang kén
phò mã cho công chúa ba đấy. Nếu quan Trạng muốn, thì việc tốt đẹp nhất
định phải thành.
Thấy tính đời như vậy,
Huyền Quang than:
Khó khăn thì chẳng
ai nhìn,
Đến khi đỗ Trạng tám
nghìn nhân duyên.
Than đoạn, chàng
nguyện sống suốt đời sẽ không lấy vợ. Thế rồi người ta thấy chàng nhất quyết từ
chối mọi hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng cuộc đời danh vọng của Huyền Quang cũng không
làm chàng thấy vui lòng. Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường,
chàng lại càng ghê tởm. Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời. Làm quan chưa được
bao lâu, chàng đã đệ đơn lên vua xin từ chức để đi tu. Bấy giờ cha mẹ chàng đã
nối gót nhau qua đời.
Vua không thể nào bắt
ép chí của chàng được. Huyền Quang tu hành rất chăm chỉ. Chẳng bao
lâu, chàng đã thông thuộc tất cả kho tàng kinh sách của nhà Phật. Rồi đó, nhờ
có học vấn không ai bì kịp, Huyền Quang được nhà vua ban cho danh hiệu Quốc sư.
Vua còn cho chàng trông nom thư viện Trúc-lâm và cho trụ trì ở một ngôi chùa lớn
cai quản hàng mấy nghìn tăng ni. Còn ít tuổi như chàng được trở thành một bậc
giáo chủ, người đời bấy giờ coi là việc hiếm có.
Hồi bấy giờ vua Anh
Tông mới lên ngai vàng. Thấy vị tổ Trúc-lâm là một người còn ít tuổi,
vua không tin là có thể chịu đựng nổi sự diệt dục khổ hạnh. - "Cứ đưa đến
một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã". Nghĩ vậy, vua có ý định
thử xem đạo đức của vị tổ trẻ tuổi này như thế nào. Nhân mấy ngày hoàng hậu se
mình, vua cho triệu tổ về kinh làm lễ cầu siêu. Sau mấy đêm ngày, công việc cầu
siêu đã xong, trước khi chàng trở về chùa, vua sai ban cho 10 lạng vàng để đền
công khó nhọc. Huyền Quang không tiện chối từ đành phải cầm lấy, nhưng chàng
đâu có ngờ rằng cái bẫy đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ.
Thế rồi sau đó ít
lâu, vua cho một cung nữ nhan sắc xinh đẹp tên là Điểm Bích, tìm cách đến chùa,
nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến rũ cho bằng được. Vua còn dặn Điểm Bích
phải làm sao lấy ở sư thầy ít nhất là một lạng vàng đưa về làm tang chứng.
Lại nói chuyện Huyền
Quang hôm ấy nghỉ tại một thiền trai cất trên một ngọn đồi cách viện Trúc-lâm
chừng vài dặm. Đây là một gian nhà nhỏ rất tĩnh mịch mà vua sai xây cho chàng để
nghỉ ngơi sau những ngày giảng kinh mệt nhọc. Vào khoảng tắt mặt trời,
chú tiểu đưa vào một cô gái vẻ mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo xống tơi tả.
- Bạch thầy, người
này bị cướp đuổi vừa gọi cửa kêu cứu.
Đó là Điểm Bích, lúc
này đã cải trang thành một cô gái quê mùa. Nàng khóc sướt mướt, một hai xin
chùa cho ở trọ đêm nay. Nàng bịa ra câu chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy chốn
vất vả như thế nào làm cho Huyền Quang không thể nào từ chối được. Cuối cùng
theo lệnh của chàng, chú tiểu sắp xếp cho Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài
thiền trai.
Sự việc vừa xảy ra
làm cho Huyền Quang thấy trong lòng không được yên tĩnh. Chàng để cho chú tiểu
đi nghỉ, rồi giở quyển kinh ra tụng niệm mãi tới khuya. Sắp sửa đặt
lưng xuống giường, chàng bỗng nghe thấy tiếng rên rỉ của người đàn bà. Chàng lại
phải đánh thức chú tiểu dậy xem thử như thế nào. Khi nghe nói người đàn bà muốn
xin được vào nằm phía trong thiền trai, vì ở ngoài không ngăn được sự sợ hãi,
Huyền Quang lấy làm bối rối. Nhà thì hẹp chỉ có ba gian, nhân thân chỉ có hai
thầy trò; các tăng chúng đều ở xa không tiện gọi.
Suy nghĩ giây lát,
Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào ở chỗ tiếp khách, còn mình thì lui
vào trai phòng khóa cửa lại. Nhưng vừa chợp mắt đi được một lúc, đã nghe tiếng
rên rỉ ở phía ngoài. Chàng lại ngồi dậy cầm lấy tràng hạt và quyển kinh. Nhưng
khi bước ra khỏi trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng thấy người đàn bà nằm
lõa lồ trên bộ ván. Chàng bước vội trở vào và quyết định ngồi trên giường tụng
niệm cho tới sáng để tránh sự cám dỗ. Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm
vừa cất lên, thì Điểm Bích từ phòng ngoài đã chạy vào, sán lại ngồi bên cạnh
chàng, nói những câu cảm ơn nhưng lại xen vào nhiều lời khêu gợi.
Biết người đàn bà
này đến đây có mục đích không lương thiện, Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại:
- A-di-đà Phật.
Nàng là ai? Tại sao lại tìm đường vào đây để quấy rối người tu hành? Nếu không
mau mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người đến cầm lá
dắt ra khỏi tu viện.
Thấy Huyền Quang
không phải là hạng người dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ.
Nàng chuyển sang bộ mặt rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn.
- Thiếp vốn là
con nhà thế phiệt. Bố thiếp làm quan một huyện ở vùng biển. Mùa tháng Năm vừa rồi
nhân đi thu thuế được ba nghìn quan, cho dân phu đài tải về kinh. Không ngờ bị
bọn cướp đường đón lấy mất cả. Quan trên thương tình cho khất đến cuối
năm. Hiện nay bố thiếp đã thu góp tư trang mới được chừng một nửa. Bởi vậy thiếp
phải đi khắp đó đây xin các nhà từ thiện kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu.
Hôm nay đánh bạo đến đây định xin hòa thượng rủ lòng thương xót quyên cấp cho
ít nhiều. Nhưng thấy cảnh chùa tôn nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy
phải dùng mẹo nhỏ để gặp hòa thượng, sau đó mới tỏ bày mục đích. Dám xin hòa
thượng mở lượng hải hà cứu vớt bố thiếp và cả nhà thiếp. Thiếp nguyện đưa thân
nữ tì hầu hạ suốt đời.
Nghe nàng sụt sùi kể
lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động. Chàng vội trả lời:
- Nàng đừng có
lo lắng gì cả. Ngày mai ta sẽ tiến triều, tâu với vua xin tha tội cho
cha nàng.
Sợ Huyền Quang về
triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói:
- Bạch hòa thượng,
việc của bố thiếp còn may là chưa đến tai Thánh thượng. Hòa thượng về tâu giúp
cho thật là công đức vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền
hòa thượng phải xuống núi nhọc sức.
Huyền Quang sực nhớ
tới mười nén vàng của vua còn bày ở trai phòng. Chàng vội lấy ra đưa cho người
đàn bà mà rằng:
- Ta biếu nàng
tất cả, nàng đưa về mà chuộc tội cho cha!
Lại nói chuyện khi
trở về cung, Điểm Bích liền đưa nộp mười nén vàng và tâu đối với vua rằng mình
đã cám dỗ đước con mồi. Để vua tin, nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương nói
là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình trước khi phá giới.
Vằng vặc trăng mai
ánh nước,
Hiu hiu gió
trúc ngâm sinh.
Người vừa tươi tốt,
cảnh vừa lạ,
Mâu Thích Ca nào chẳng
hữu tình.
Nghe xong câu chuyện
và nhìn thấy mấy nén vàng, nhà vua thở dài hối hận:
- Chao ôi. Bậy
quá! Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi. Tự dưng vô cớ đi gài bẫy, nhất định
con chim khó có thể tránh được. Biết làm thế nào bây giờ?
Nghe nói thế, một
viên quan ghé vào tai vua hiến kế:
- Tâu bệ hạ,
xin bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật dọn toàn cỗ mặn rồi mời thầy về làm lễ.
Nếu quả là thầy còn trong sạch thì chư phật sẽ độ cho cỗ mặn hóa thành chay,
nhược bằng hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ.
Vua cho là phải, bèn
hạ lệnh cho gọi Huyền Quang về triều để chàng làm một lễ chay trọng thể vào dịp
rằng tháng Bảy sắp tới. Vua còn bắt quân hầu dựng một đàn tràng nguy nga,
các rạp đều trần trướng toàn bằng lụa hoàng quyến.Trái hẳn với tục lệ
nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Khi sắp bước
vào rạp. Huyền Quang biết nhà vua cố ý làm nhục mình. Các mâm cỗ mặn tanh
tưởi bày trên đàn kia nếu không phải là một sự xỉ vả thì còn gì nữa. Lụa hoàng
quyến nói lái lại rõ ràng ám chỉ hai tiếng "Huyền Quang".
Chàng bèn ngửa mặt lên trời lớn tiếng khấn:
- Kẻ đệ tử này
nếu có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A-tì địa ngục, còn nếu
không, thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả!
Tự nhiên một trận
gió mạnh nổi lên, cát bụi mù mịt, trời đất tối sầm cả lại. Một chốc gió tan, mọi
người nhìn lên đàn tràng thì, lạ thay, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ
chay tinh khiết thơm tho, mọi mùi tanh tưởi đều đã bị quét sạch từ bao giờ. Huyền
Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của chúng tăng và mọi
người. Vua Anh Tông được tin, lập tức ra lệnh bắt Điểm Bích tra hỏi cho ra sự
thật. Biết là bại lộ, người cũng nữ ấy cúi đầu thú hết tội lỗi. Vua
truyền bắt Điểm Bích bỏ ngục để chờ ngày phán xử, rồi xa giá tới gặp Huyền
Quang tạ lỗi. Câu nói đầu tiền của Huyền Quang là xin vua tha tội cho Điểm Bích.
Hết.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
Comments
Post a Comment