Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng
cha khác mẹ. Hai chị em
suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi
Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám.
Nhưng dì ghẻ của Tấm là người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn
canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa
giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn
trắng mặc trơn, suốt ngày
quanh quẩn ở nhà không phải làm việc nặng.
Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em
mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng bắt con tôm cái tép. Mụ ta hứa hẹn: -
"Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!".
Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên
chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủnh đỉnh dạo hết
ruộng nọ sang ruộng kia, mãi đến chiều vẫn không được gì.
Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo
chị:
- Chị Tấm ơi chị
Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.
Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ
sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn
cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc
hu hu.
Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen. Bỗng nghe
tiếng khóc của Tấm liền hiện xuống hỏi:
- Con làm sao lại khóc?
Tấm kể sự tình cho Bụt nghe. Bụt bảo:
- Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn
vào giỏ xem còn có gì nữa không? Tấm nhìn vào giỏ rồi nói:
- Chỉ còn một con cá bống.
- Con đem con cá bống ấy về nhà thả
xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả
xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi như thế này:
Bống bống, bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
không gọi
đúng như thế nó không lên, con nhớ lấy!
Nói xong là Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt
thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm
giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp
những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày
một lớn lên trông thấy.
Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra
giếng, mụ dì ghẻ sinh
nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống,
bèn nhẩm cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.
Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy
sớm chăn trâu, và dặn:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm
đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải
chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn
thật xa. Ở nhà mẹ con con Cám mang bát cơm ra giếng, cũng gọi bống lên ăn y như
Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước.
Mẹ con Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về làm thịt.
Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn uống
xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng. Tấm gọi mãi nhưng chẳng thấy bống
ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy một cục máu nổi
lên mặt nước. Biết có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện
lên, hỏi:
- Con làm sao lại khóc?
Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:
- Con bống của con người ta đã ăn
thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi. Rồi về nhặt lấy xương nó, kiếm bốn
cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.
Tấm trở về theo lời dặn của Bụt đi tìm
xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà
thấy thế, bảo Tấm:
- Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta
bới xương cho!
Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào
bếp bới một lúc thì được xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn
dưới chân giường như lời Bụt dặn.
*
* *
Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ
trai gái các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo
đường, quần áo mớ ba
mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy
Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài. Sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với
một đấu thóc, bảo Tấm:
- Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này
rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.
Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên
đường, Tấm ngồi nhặt một lúc mà chỉ mới được một nhúm, nghĩ rằng không biết bao
giờ mới nhặt xong, buồn bã, bèn khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên, hỏi:
- Con làm sao lại khóc? Tấm chỉ vào
cái thúng, thưa:
- Dì con bắt phải nhặt thóc cho ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội.
Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi, còn gì
nữa mà xem.
Bụt bảo:
- Con đừng khóc nữa. Con mang cái
thúng đặt ra giữa sân, để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp.
- Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về
con vẫn cứ bị đòn.
- Con cứ bảo chúng thế này:
Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao
Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết1
thì chúng sẽ
không ăn của con đâu.
Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ
đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít
chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã
bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại hỏi:
- Con làm sao còn khóc nữa?
- Con rách rưới quá, người ta không
cho con vào xem hội.
- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi
thứ cho con trẩy hội.
Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ
thứ nhất lấy ra được một bộ áo mớ ba,
một cái xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai
lấy được một đôi giày thêu, đi vừa như in. Lọ thứ ba đào lên thì thấy một con
ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó hí vang lên và biến
thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.
Tấm mừng qua vội tắm rửa rồi thắng bộ vào,
đoạn cưỡi lên ngựa mà đi.
Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi
một chiếc giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy
khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người.
Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá cũng vừa tiến
đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đây tự nhiên cắm ngà xuống đất
kêu rống lên không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem; họ nhặt
ngay được chiếc giày thêu của Tấm đánh rơi lúc nãy. Vua ngắm nghía chiếc giày
không chán mắt, bụng bảo dạ: - "Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi
giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc".
Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái đi
xem hội đến ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại
càng náo nhiệt vì các bà, các vô chen nhau đến chỗ thử giày. Cô nào cô ấy lần
lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm thử một tý cầu may. Nhưng chả có
một chân nào đi vừa cả. Mẹ con con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước
ra khỏi lầu thì gặp Tấm. Cám mách mẹ:
- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy! Mụ dì ghẻ
của Tấm bĩu môi:
- Con nỡm!
Chuông
khánh còn chả ăn ai,
Nữa là mảnh
chỉnh vứt ngoài bờ tre.
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa
như in. Nàng mở khăn
lấy chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò
reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu
trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con con Cám.
*
* *
Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn không
quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con
con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen
ghét lại bừng bừng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con
hãy trèo xé lấy một
buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời trèo lên cây cau. Lúc lên đến
sát buồng thì ở dưới này mụ dì cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc thế?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho
nó khỏi lên đốt con.
Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ,
Tấm ngã lộn cổ xuống ao, chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con
mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống
ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui
nhưng vẫn không nói gì cả.
Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim
vàng anh. Chim bay một mạch
về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh dừng
lại trên một cành cây, bảo nó:
- Phơi áo
chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Rồi chim vàng anh bay thẳng vào cung đậu ở
cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm
không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:
- Vàng ảnh
vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.
Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua, rồi
rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng
bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim không tưởng đến Cám.
Cám vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt
chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua
đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng
anh, vua hỏi, Cám đáp:
- Thiếp có mang thèm ăn thịt chim nên
trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.
Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh
chôn ở vườn hóa ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của
chúng sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp
bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi
thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm
hóng mát ở hai cây xoan đào.
Cám biết chuyện lại về mách mẹ. Mẹ nó bảo
cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân
một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy
cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:
- Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ
chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi
dệt vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:
Cót ca cót két, Lấy
tranh chồng chị,Chị khoét mắt ra.
Thấy vậy con Cám sợ hãi vội về mách mẹ. Mẹ
nó bảo đốt quách khung cửi rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên
tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó mang tro đã đốt đem đi đổ ở
lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao
lớn, cành lá sum suê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng
mùi thơm tỏa ngát khắp nơi. Một bà lão hàng nước ở gần đó một hôm đi qua dưới
gốc ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ
bị ra nói lẩm bẩm:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà
ngửi, chứ bà không ăn.
Bà lão vừa dứt lời thì quả thị rụng ngay
xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉnh
thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.
Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong
quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay nhưng chỉ trong chớp mắt
đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ,
rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại
thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy
nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon canh ngọt sẵn sàng thì lấy làm lạ.
Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến
nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị
chui ra rồi cũng làm các việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào các khe
cửa. Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm
choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người
thương yêu nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm,
nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng.
Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung.
Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên
vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước
cũng y như vậy, liền phán hỏi:
- Trầu này ai têm?
- Trầu này con gái già têm, bà lão đáp.
- Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho
ta xem mặt.
Bà lão gọi Tấm ra, Tấm vừa xuất hiện, vua
nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà
hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.
Cám thấy Tấm trở về được vua yêu như xưa
thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm Cám hỏi chị:
- Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào
mà đẹp thế? Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:
- Có muốn đẹp không để chị giúp!
Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào
một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu
dội nước sôi vào hố. Cám chết, Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ con Cám tưởng thật
lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu
trên nóc nhà kêu rằng:
- Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con, có còn xin
miếng?
Mẹ con Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày mắm
gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy
đầu lâu của con thì lăn đùng ra chết.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
Truyện 136. Tấm Cám
KHẢO DỊ
Ở Nam bộ cũng có lưu hành một truyện Tấm
Cám có những tình tiết gần giống với những tình tiết của truyện Lý triều đệ tam hoàng hậu sự tích vừa kể. Sau đây là nội dung truyện
kể ở miền Nam mà Jan-nô (G. Jeanneau), người sưu tầm sớm nhất đã ghi được ở Mỹ
Tho năm 1886:
Có hai vợ chồng sinh hai cô gái Tấm và
Cám, là con sinh đôi. Tấm được bố mẹ chăm nom chiều chuộng rất mực, còn Cám thì
bị đối đãi như tôi đòi. Một hôm người cha cũng giao cho mỗi con một cái giỏ,
bảo đi bắt cá, ai bắt được nhiều hơn thì được gọi bằng chị. Cám được nhiều hơn,
nhưng Tấm bảo đưa giỏ cho mình giữ hộ để đi hái rau thơm về kho cá. Cám trở về
thì bao nhiêu cá đã bị Tấm lấy mất chỉ
còn một con bống mú. Do đó Tấm được làm chị. Cũng như truyện kể ở miền Bắc, Cám
được thần hiện lên bày cho cách nuôi cá bống mú, nhưng nuôi được ít lâu cá cũng
bị Tấm tìm cách bắt ăn thịt. Thần hiện lên bày cách bỏ xương cá vào hũ chôn
xuống đất, sau sẽ được nhiều vật quý. Một con gà cũng mách cho Cám chỗ vùi
xương bống. Sau ba tháng mười ngày, Cám đào lên quả được áo quần đẹp và một đôi
giày. Một hôm Cám đem giày đi ra đồng bị ướt, phải đem phơi, bỗng một con quạ
cắp mất một chiếc đem bỏ vào cung vua. Hoàng tử bắt được cho rao mời đàn bà con
gái mọi nơi về thử, ai đi vừa sẽ lấy làm vợ. Tấm được bố mẹ cho ăn mặc đẹp trẩy kinh, còn Cám thì phải
ngồi nhặt một mớ đậu và vừng trộn lẫn. Thần cho bồ câu đến giúp (có người kể
con quạ lần trước tha giày đến bày cho Cám cách sàng để nhặt được nhanh). Sau
đó Cám đến kinh thử giày, và trở thành vợ hoàng tử.
Một hôm, Cám nghe tin bố đau nặng bèn về
thăm. Thật ra Cám bị lừa, dưới giường chỗ bố nằm có để nhiều tấm bánh đa nướng
để khi trở mình nghe tiếng răng rắc. Cám tưởng bố gãy xương thương lắm, khóc
rưng rức. Rồi Cám cởi áo trèo cau theo lời bố. Cây cau bị Tấm chặt gãy, Cám rơi
vào hố nước sôi chết. Nhờ có mặt mũi
giống Cám, Tấm mặc áo quần rồi vào cung mà không ai biết, kể cả hoàng tử, nhưng
hoàng tử ngày một nguội lạnh với Tấm. Cám hóa thành chim quành quạch, và cũng như truyện
kể ở miền Bắc, chim bay vào cung gặp Tấm đang giặt áo. Chim cũng nói câu:
"Phơi áo chồng tao..." và sau đó cũng được hoàng tử đem về nuôi ở
lồng. Tấm cũng bắt chim ăn thịt và nói rằng mình có mang thèm ăn thịt chim. Chỗ
vứt lông chim mọc lên một măng tre, sau đó bị Tấm chặt làm thức ăn. Vỏ măng hóa
thành một cây thị chỉ có mỗi một quả, mỗi lần hoàng tử ở nhà thì cành lá xòa
xuống thấp, nhưng khi đi vắng thì cây vươn lên cao vút, vì thế Tấm muốn hái thị
ăn mà không được. Sau đó thị rơi vào bị một bà lão ăn mày. Tiên nữ trong quả
thị cũng nhiều lần hiện ra giúp bà lão, sau cùng bà lão cũng rình bắt được, bèn
xé nát vỏ thị.
Một hôm, Cám hóa phép làm cỗ bàn rất linh
đình để dọn cúng chồng bà lão, nhưng lại ép nài bà đi mời hoàng tử tới dự.
Hoàng tử đòi phải có thảm trải từ cung đến nhà mới chịu đi. Quả có thảm trải
thật, lại có cả miếng trầu têm rất đẹp làm hoàng tử chú ý, hỏi thì bà lão nói
dối là mình têm. Hoàng tử bảo bà thử têm cho mình xem. Cám hóa làm con ruồi vẽ
cho bà cách têm, nhưng khi hoàng tử đuổi ruồi thì bà lão lại không têm được,
đành phải thú thật là do con gái mình têm. Nhờ đó hoàng tử gặp lại vợ cũ.
Đoạn kết giống hẳn với truyện trên: Tấm
hỏi Cám làm sao lại đẹp. Cám nói nhờ ngã vào hố nước sôi. Tấm nhảy vào nước sôi
mà chết. Cám liền làm mắm gửi cho dì ghẻ, dì ghẻ cũng khen ngon, rồi cũng có con quạ đến mách và bị
đuổi. Khi ăn gần hết, thấy đầu lâu con gái mẹ Tấm
lăn ra chết.
Đuy-mu-chiê (Dumoutier) có sưu tầm được
một dị bản, cũng ở Bắc-ninh, có lẽ xuất phát từ nguồn gốc thần tích, cách kể và
một số tình tiết có khác với các dị bản trên:
Vào cuối thời Hùng Vương có một người tên
là Đào Chí Phẩm ở làng Lãm- sơn, huyện Quế-dương (Bắc-ninh), vợ đẻ được một con
gái là Tấm rồi mất. Đào Chí Phẩm lấy vợ sau là Thị Cao đẻ được Cám. Khi chồng
chết, Thị Cao bạc đãi con ghẻ. Các tình tiết bắt cá, nuôi bống, ăn thịt bống,
nhặt xương bống chôn dưới gầm giường, và đổ lẫn các giống hạt bắt nhặt (ở đây
là các giống đỗ) v.v... đều đại khái giống với các truyện Tấm Cám đã kể. Khi Bụt mách cho Tấm đào
những lọ dưới chân giường, Tấm đào được trong lọ một cô gái hầu, các lọ kia là
áo giày và ngựa (nhưng về sau không thấy cô gái hầu xuất hiện trong các tình tiết
kế tiếp). Do chiếc giày của
Tấm đánh rơi khi đi xem hội, mà hoàng tử tìm được Tấm. Thấy nàng đẹp, hoàng tử
muốn lấy làm vợ, Tấm bảo về hỏi người mẹ ghẻ. Hoàng tử phái quan đến hỏi, Thị
Cao thuận gả nhưng đến ngày cưới lại bảo Tấm đi chơi xa, rồi lấy áo quần Tấm
mặc cho Cám, đưa Cám vào cung. Tấm về thất vọng nhảy xuống giếng chết. Hồn Tấm
hóa thành chim vàng anh bay vào cung. Thấy Cám giặt áo cho hoàng tử, chim cũng dặn không được phơi bờ rào "rách
áo chồng tao". Nghe nói thế, hoàng tử biết mẹ con Thị Cao lừa gạt, bèn hỏi
chim: - "Có phải vợ anh chui vào tay áo". Chim bay ngay vào tay áo.
Truyện không nói đến những hành vi độc ác
của Cám và mấy lần tái sinh của Tấm mà cho rằng Cám thấy chim, biết đó là chị
nó thì sinh ra hối hận, bèn nhảy xuống giếng chết.
Truyện này với truyện Tấm
Cám (do người miền Nam kể)
gần như là một. Ngày xưa có hai nhà nọ có hai cô gái Ca-dong và Ha-lớc. Ha-lớc là con đẻ, còn
cô kia là con nuôi. Nhưng hai cô cùng một lứa tuổi như nhau, không ai chịu nhường
ai làm chị. Bà mẹ liền trao cho mỗi cô một cái giỏ bảo đi bắt cá, ai nhiều hơn
thì được làm chị. Ca-dong bắt được độ nửa giỏ thì mệt, bèn lên bờ nằm ngủ.
Ha-lớc bắt được ít, thừa dịp lấy trộm bỏ vào giỏ của mình. Khi Ca-dong dậy, hỏi
ai lấy hết cá, Ha-lớc nói không biết. Biết là Ha-lớc lấy trộm, Ca-dong rất
buồn. Xuống ao lần nữa, cô chỉ bắt được cột con cá gia-rốc.
Trở về, Ha-lớc được làm chị. Ca-dong không
nói gì chỉ nuôi con cá gia-rốc làm em, vì nghĩ nó cũng trơ trọi như mình. Ngày
nào ăn cơm, cô cũng không quên đến giếng gọi: "Ơi cá! Lên mà ăn với
chị!". Ha-lớc cũng đến rình và cuối cùng bắt cá về làm thịt ăn.
Ca-dong mất cá,
khóc lóc ngày đêm. Cô chiêm bao thấy cá kể lại việc bị bắt và bảo hãy lấy xương
bỏ vào gáo dừa đem chôn ở ngã tư đường, nơi hàng ngày cô cho dê qua lại.
Ca-dong làm theo lời. Một hôm đi qua, cô thấy một đôi giày vàng. Cô chỉ nhặt
được một chiếc, còn chiếc kia bị quạ tha đi mất. Quạ bay đến cung thả rơi chiếc
giày trước mặt vua.
Vua xuống chiếu cho các cô gái đến ướm thử, hứa sẽ lấy cô nào ướm thử vừa làm vợ.
Trong khi Ha-lớc soạn sửa ra đi, thì
Ca-dong được mẹ giao cho một cuộn chỉ rối, bắt gỡ. Lại lấy một đấu vừng trộn
lẫn với một đấu ngô bắt nhặt xong mới được đi. Ca-dong khóc. Thần hiện ra sai
mọi giống chim, mối, kiến, bò cạp, gián vàng, gián đỏ đến nhặt giúp. Xong,
Ca-dong lấy chiếc giày gói vào khăn ra đi một mình. Trong khi các cô gái giàu
có sang trọng "kẻ thì mặt trăng rằm, người thì vú tròn như quả dưa"
chen chúc ướm chân, thì Ca-dong ăn mặc rách rưới chỉ đứng nấp bên ngoài cung
điện. Mọi người ướm xong, không ai vừa chân cả. Vua hỏi còn ai nữa không? Người
hầu cho biết chỉ còn Ca-dong đứng nấp bên ngoài. Vua cho gọi vào ướm thử
thì vừa như in. Vua sai người hầu đưa cô đi tắm và lấy làm vợ. Hỏi về gia đình,
cô đáp là bố mẹ đẻ
đều chết, ở với mẹ nuôi. Hỏi còn chiếc giày nào nữa thì cô đưa chiếc trong khăn
ra. Vua biết đó là người có số làm hoàng hậu.
Ít lâu sau, mẹ Ha-lớc đến xin cho Ca-dong về
nhà vài ngày kẻo "nhớ lắm". Ca- dong về không được ăn, cũng không
được ngủ trên chiếu. Sáng dậy Ha-lớc rủ Ca-dong đi trảy dừa. Ca-dong trèo cây
thì Ha-lớc chặt gốc. Ca-dong chuyển sang một cây khác, Ha-lớc lại chặt cây kia.
Ca-dong rơi xuống hồ hóa thành rùa vàng ở dưới hồ.
Mẹ Ha-lớc đưa con đến cung nói là để thế
cho Ca-dong đi đâu mất không tìm thấy. Vua nhận, nhưng tỏ ý không vui. Một hôm
vua đi săn đến hồ tự nhiên thấy người buồn bã, bèn bảo dừng lại, cho người lặn
xuống hồ, và rất mừng khi thấy người ấy bắt được một con rùa. Vua ôm lấy rùa
đưa về cung nuôi trong chậu vàng.
Một hôm vua đi chơi. Ha-lớc bắt rùa làm
thịt, quẳng mai ở sau nhà. Từ cái mai mọc lên một măng tre. Thấy mất rùa, vua hỏi, Ha-lớc nói không
biết. Vua hỏi thầy bói. Ha-lớc mới thú thật rằng mình có mang nên thèm thịt
rùa. Vua không nói gì, chăm chút cho măng tre, nhưng rồi Ha-lớc lại chặt măng
nấu ăn khi vua đi vắng. Vua về hỏi, Ha-lớc lại đổ cho là vì có mang nên thèm ăn
măng. Vua cũng không nói gì. Vỏ măng sau đó lại hóa thành chim bếch (sáo) đến
hót ở cung. Vua bảo: "Có phải Ca-dong thì đậu vào tay áo". Chim đậu
vào tay áo, vua giữ lại nuôi. Ha-lớc lại bắt chim làm thịt ăn, quẳng lông ra
đường cái. Lông chim mọc thành cây pen (thị). Vua hỏi, Ha-lớc đáp: - "Chim
bay qua nồi canh đang sôi rơi vào, tôi vớt cho chó ăn". Vua cũng không nói gì.
Cây pen chỉ có một quả. Quả chín bay mùi thơm
khác thường làm ai đi qua cũng thèm nhưng nhìn lên thì không thấy, trừ một bà
già. Cũng như ở truyện Tấm Cám, bà già ước nó rơi xuống, và nó rơi ngay, bà đưa
về rấm vào vại.
Từ đoạn này về sau đều y như truyện của
ta, chỉ thêm một tình tiết là khi bà già mời vua tới ăn cỗ, vua ăn bánh thấy
giống hệt bánh Ca-dong làm ngày trước. Hỏi bà già thì bà nói vì có nhiều người
làm giúp nên không biết bánh của ai. Vua ăn trầu lại thấy giống hệt trầu của
Ca-dong têm. Vua thở dài. Ca-dong trong buồng cũng thở dài. Nghe tiếng, vua
chạy vào thì gặp vợ. Một tình tiết khác nữa là khi Ca-dong bảo người hầu đưa
mắm Ha-lớc về cho mẹ nó
ăn có nhắn tin mời mẹ Ha-lớc đến chơi. Mẹ Ha-lớc đến, thấy Ca-dong lại tưởng là
Ha-lớc, nói rằng:
- "Có phải con mời mẹ đến chơi
không?". Ca-dong đáp: "Không". Mẹ Ha-lớc mới biết là Ca-dong còn sống, thẹn trở về. Ăn gần hết mắm thấy có bàn tay (không
phải đầu lâu), mụ nhận ra chiếc nhẫn của con gái mình mới biết là con đã chết.
Về hình tượng chiếc giày của Tấm rơi xuống
chỗ lội, chúng tôi kể ra đây hai truyện biết được thời điểm sưu tầm (do đó mới
có cơ sở đoán rằng kiểu truyện Tấm Cám đã được lưu hành từ khá xưa).
1. Truyện Ai Cập:
Một hôm có một kỹ nữ là Rô-đô-pix đi tắm ở
sông Nin. Một con quạ tha một chiếc giày từ tay cô hầu rồi bay đến thành
Mem-phix và thả rơi đúng tà áo của vua trong khi ông này đang xử kiện giữa một
tòa án lộ thiên. Nhận thấy chiếc giày đẹp, vua bèn sai người đi tìm người đàn
bà chủ nhân chiếc giày. Người ta tìm thấy Rô-đơ-pix ở thành No-cra-tix dẫn về.
Vua lấy làm vợ. (Truyện trên do Xtra-bông (Strabon) ghi chép vào thế kỷ 3 trước
công nguyên. Hai thế kỷ sau một tác giả khác cũng người Hy-lạp là Ê-liêng (Éllien)
kể lại có tô chuốt chút ít và gán tên cho một nhân vật trong truyện là
Pxam-mê-ti-quyx, vua có thật ở Ai- cập).
2. Truyện Nàng Diệp hạn trong sách Dậu dương tạp trở.
Một người lấy hai vợ, một vợ có con gái là
Diệp Hạn. Sau khi bố mẹ chết, nàng bị mẹ ghẻ hành hạ, bắt làm những công việc
nặng nhọc và nguy hiểm. Một hôm bắt được một con cá vảy đỏ mắt vàng, nàng nuôi
ở chậu, sau thả xuống ao vì cá mỗi ngày một lớn. Dì ghẻ muốn bắt cá, nhưng hễ
không thấy bóng Diệp Hạn thì cá không nổi lên. Một hôm mụ bắt nàng đi gánh nước xa rồi
lấy áo của nàng vừa thay mặc vào, đón bờ gọi cá. Cá tưởng Diệp Hạn, nổi lên, mụ bắt làm thịt, xương chôn ở khu
đồi. Thấy mất cá, Diệp Hạn khóc, một người hiện ra hỏi vì sao mà khóc. Nghe kể
chuyện, người ấy bảo Diệp Hạn đem xương cất đi sẽ cầu được ước thấy. Nhờ đó, cô
có áo quần đẹp, giày vàng. Đi xem hội cô là người đẹp nhất đám, nhưng cũng như
truyện của ta, cô đánh rơi chiếc giày vàng. Dân bắt được chiếc giày đem bán cho
vua Đà Hãn. Cũng xảy ra câu chuyện ướm giày và cuối cùng Diệp Hạn đi vừa, được
đón vào cung không quên mang theo nắm xương cá. Truyện kết thúc bằng cái chết
của mẹ con mụ dì ghẻ do
"phi thạch" trên trời rơi xuống đầu. Dân thương hại chôn cất và thờ
làm thần se duyên (Môi thần). Về sau vì vua ước quá nhiều nên xương cá không
còn hiệu nghiệm, bèn đem chôn cùng một trăm đấu hạt châu và vàng ở bờ biển,
nhưng đến khi đào lên thì mọi thứ đều biến mất.
Nguồn: “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – Nguyễn
Đổng Chi”
Comments
Post a Comment