Ngày xưa ở động
Sơn-la thuộc Hưng-hóa có một chàng trẻ tuổi tên là Chu sinh. Bố mẹ mất
sớm, chàng được chú đưa về nuôi cho ăn học. Nhưng người chú yêu dấu cháu bao
nhiêu thì người thím lại ghét bỏ bấy nhiêu. Thấy phải nuôi báo cô một đứa cháu
dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, người đàn bà ấy rất bực mình. Lâu dần, người
thím không kiêng nể nữa, mỗi khi có chuyện không vừa ý, chửi mắng chàng hết lời.
Một hôm, chú đi vắng,
ở nhà thím la rầy, Chu sinh cãi lại mấy câu. Thấy thế, người thím không ngăn được
cơn thịnh nộ: - Đã thế mày đi đâu thì cút ngay đi, đừng có vác mặt về
đây mà ăn nữa!
Nghe mấy câu xúc phạm,
Chu sinh bỗng tức giận đầy người. Chàng vào thu dọn áo quần sách vở rồi tức tốc
ra đi, thề quyết sẽ không trở lại gặp thím nữa. Chàng tìm về mấy gian nhà nát của
bố mẹ bấy lâu vẫn bỏ hoang, trải manh chiếu rách lên giường rồi làm một giấc.
Người chú về biết rõ
cơ sự, bèn tìm đến nhà, rủ cháu về. Chu sinh đã nhịn đói hai hôm nhưng nhất quyết
không chịu. Người chú đành mang tiền gạo đến cho chàng và cố tình khuyên dỗ.
Cháu hẹn chú ba ngày. Nhưng ba ngày trôi qua vẫn không thấy cháu về, chú lại
mang tiền gạo sang chu cấp. Cháu lại khất ba ngày khác, nhưng rồi vẫn không về.
Người chú cuối cùng cũng bực mình, đến nhà bảo: - "Tao bảo mày không
nghe thì kệ xác mày, không hơi đâu mà khuyên dỗ mãi!"
Nói rồi từ đó mặc kệ
Chu sinh, nhất định không đoái hoài nữa. Sau khi gạo tiền đã hết, Chu sinh nằm
nhịn luôn trong hai ngày. Tuy bụng đói, chàng vẫn không chịu chạm trán với người
thím ác nghiệt. Hôm ấy, sau khi ngâm mấy bài thơ, chàng tự nhiên ngủ
thiếp đi. Đang lúc mơ mơ màng màng, bỗng thấy có một viên quan phẩm
phục rực rỡ, theo sau có mấy tên thị vệ đến nhà mình. Bấy giờ chàng đang ngồi đọc
sách. Chàng tưởng họ vào nhầm nhà, nhưng khi xưng tên tuổi thì thấy quả họ đang
tìm mình. Viên quan mở hộp vàng lấy ra một đạo dụ đọc cho chàng nghe.
Lúc đầu chàng cứ tưởng hoàng đế đang trị vì triệu mình, nhưng khi
nghe xong thì chàng lấy làm ngạc nhiên. Những tiếng "quốc mẫu nước
Hoa-thành" thật là mới lạ, chưa nghe nói bao giờ; cả đến giọng đọc của
viên quan cũng nghe lơ lớ, không phải người ở vùng kinh kỳ tới.
Khi biết những người
khách lạ đến với thiện ý đưa mình tiến kinh làm phò mã thì Chu sinh
thấy yên tâm. Chàng nghĩ bụng: - "Hẵng cứ phó mặc cho may rủi một phen thử
xem". Chàng bèn bước theo chân họ. Đường rất mờ mịt. Chỉ một thôi, họ đã
tiến vào một nơi có nhà cửa đẹp đẽ, người đi lại đông đúc như một thị trấn.
Vượt qua mấy lần cổng thành lớn. Có lính canh gác nghiêm ngặt, đã thấy trước mặt một
tòa lâu đài nguy nga, trên đề chữ "điện Hoàng-kim". Viên quan bảo chờ
trước sân rồng rồi tiến vào một nơi có mành ngọc che. Một chốc hắn rón rén bước
ra giục chàng vào làm lễ. Chu sinh chỉ mới kịp cúi đầu lạy hai lạy thì ở trong
có tiếng truyền ra cho chước miễn, và bảo dắt lên thềm. Chàng thấy đó là một bà
cụ già chừng 60 tuổi, mặt mũi phúc hậu, nhìn mình với cặp mắt có cảm tình. Tuy
đói bụng nhưng chàng cố hết sức giữ lễ. Người ta mời chàng ngồi lên sập
vàng bên tả chỗ ngồi của quốc mẫu. Sau buổi trà nước, tiệc yến dọn lên, sơn hào
hải vị bày đầy cả chiếu. Một chốc, từ trong cung tiến ra một cái kiệu nhỏ, trên
có một thiếu niên bước xuống vái chào Chu sinh. Quốc mẫu nói bằng một giọng
thân mật:
- Con ra tiếp
đi. Chú rể mới bao giờ mà chả thẹn.
Thế rồi hai người
chén thù chán tạc. Chu sinh chưa bao giờ cảm thấy sung sướng và ngon miệng hơn
thế. Giữa bữa ăn, quốc mẫu cho chàng biết tiên đế là chồng bà với cha chàng đã
từng đính ước gả con cho mau. Bây giờ cốt mời chàng đến đây để thực hiện lời hứa
đó. Tuy chưa hiểu hai bên quen biết từ bao giờ, lại cũng chưa rõ mặt mũi công
chúa Mộng Trang ra sao, nhưng chàng cũng cung kính gật đầu.
Ăn xong, quốc mẫu
ngoảnh lại bảo chàng: - Phò mã hãy trở về đợi ba ngày nữa sẽ lại cho
người đến rước.
Liền đó, chàng từ tạ
ra về, có cờ trống đàn sáo tiễn ra đến ngoài hoàng cung.
Thoáng có cơn gió lạnh
phả vào mặt, Chu sinh giật mình tỉnh dậy thì thấy mình vẫn nằm trên manh chiếu
rách cũ, nhưng miệng còn hơi rượu và bụng hãy còn no. Suy đi nghĩ lại, chàng
không hiểu ra thế nào cả.
Ba ngày sau, chàng lại
nằm mê như trước, lần này, đến điện Hoàng-kim thì đã thấy đèn treo, hoa kết, rực
rỡ vô cùng. Chu sinh được dắt vào một gian buồng, thay bỏ đồ cũ để mặc quần áo
mới may. Được một chốc, có một bọn người cung nữ đưa công chúa ra gặp tân lang.
Chàng chỉ hồi hộp chờ có mỗi phút đó. Và chàng sung sướng vô cùng khi nhìn trộm
thấy diện mạo của vợ khó có ai sánh kịp. Hai bên cùng vào làm lễ và cùng rót rượu
cho nhau uống giữa những tiếng đàn sáo nhã nhạc và lời chúc tụng hoan hỷ của mọi người.
Sau đó, vâng lệnh quốc
mẫu, hai người đưa nhau vào Tây phòng. Đêm ấy, Chu sinh sung sướng vô hạn và mặc
dầu thoáng thấy có những vằn lạ ở bụng và lưng vợ nhưng chàng vẫn không quan
tâm.
Sáng hôm sau, ăn
xong hai người lại ra hầu quốc mẫu. Bà bảo chàng:
- Nước đây là nước
Hoa-thành. Năm xưa tiên đế mất đi để lại cho ta dân đông, công việc
nhiều. Thái tử còn nhỏ tuổi mà ta thì đã già rồi, trông nom không xiết. May
có công chúa giúp đỡ từ bấy đến nay. Lấy chồng thì phải theo chồng nhưng công
chúa mà đi thì không ai giúp cho ta cả. Vậy phò mã nên thể tình ta, để vợ ở
đây, cứ ba ngày một sẽ cho Xuyên Hoa sứ về đón.
Chu sinh chỉ còn biết
vâng dạ.
Trò chuyện một lúc,
Chu sinh ra về. Công chúa tiễn chồng ra hoàng cung vẻ lưu luyến buồn rầu lộ ra
nét mặt. Thái tử nói bỡn:
-Vợ chồng mới cưới
hôm qua, hôm nay đã thương nhớ nhau đến thế ư? Mọi người đều cười rộ làm cho
chàng đỏ cả tai.
Thế rồi Chu sinh lại
tỉnh dậy sau một giấc ngủ một ngày một đêm. Mùi rượu và mùi hương của công chúa
vẫn còn thấy phảng phất. Lần này, chàng không còn coi là một sự lạ nữa. Chàng lại
giở sách ôn luyện. Bụng vẫn không thấy đói.
Từ đó cứ ba ngày một
lần, Chu sinh lại chiêm bao đến nước Hoa-thành để được gặp gỡ công chúa và để
được ăn những bữa tiệc no say. Hết chiêm bao, chàng lại sống cô độc và thiếu thốn
trong gian nhà nát. Tuy ngoài giấc mộng chàng không hề ăn uống gì mà mặt mũi
vẫn hồng hào tươi tốt.
Cuộc đời cứ đều đặn
như thế kéo dài đến hơn một năm trời. Xóm làng cho là chàng có phép tịch cốc, hỏi
thì chàng chỉ cười mà không trả lời. Lúc này công chúa vợ Chu sinh đã sinh được
một con trai. Quốc mẫu hạ lệnh cho vợ các quan phải đến cho đứa bé bú. Thằng bé
chóng lớn. Ngày đầy tuổi tới, chàng đến sớm hơn mọi lần. Lúc đến nơi đã thấy
cung đình xúm xít những triều thần, các quan lớn bé cùng các bô lão ăn mặc rực
rỡ, chào hỏi lăng xăng. Họ mang tiền nong, lễ vật đến mừng con chàng nhiều lắm,
chất đầy cả sập. Đổi lại, quốc mẫu sai dọn tiệc đãi họ. Chu sinh phải thân đi
rót rượu mời mọc khá vất vả.
Một hôm, chàng theo
lệ thường đến yết kiến mẹ vợ. Chàng ngạc nhiên khi thấy mặt bà có vẻ
buồn rầu hốt hoảng khác thường. Hỏi thì quốc mẫu gạt nước mắt trả lời: - Từ
lâu ta vẫn có ý giấu phò mã. Nhưng nay đã đến lúc không thể giấu được nữa. Đã
hai tháng nay, ngày nào cũng có tin cáo cấp ở biên thùy. Bọn giặc dữ đã tràn
vào cõi, cướp bóc và tàn hại dân ta không biết bao nhiêu mà kể. Quân ta nghênh
chiến bị tử thương vô số. Hôm nay, coi chừng giặc đã phạm đến gần kinh đô. Cho
nên ta định ngày mai sẽ thiên đô đi nơi khác.
Chu sinh toan hỏi
thêm về tình hình chiến sự thì đã thấy quan thượng thư Bộ binh xin vào yết kiến:
- Tân bệ hạ,
quân giặc mỗi ngày một thêm mạnh và đông. Cứ như con số hạ thần nắm được thì
quân và dân ta đã hy sinh mất một phần ba. Nếu bệ hạ cố ở lại thì còn
dân đâu mà lập nước nữa. Vậy xin kíp thiên đô nội trong đêm nay!
Nghe nói, quốc mẫu sợ
hãi, lập tức sai thảo chiếu hỏa tốc đi mọi phương ra lệnh đúng giờ hợi khởi
hành. Rồi bà day lại bảo Chu sinh:
- Quốc gia đại
sự, không thể để phò mã đi theo, cũng không dặn dò được nhiều. Chỉ nhắc phò mã
biết rằng ta đã sai Xuyên hoa sứ mang tiền của công chúa gửi cho
phò mã dùng, phò mã cố gắng học thành tài, sẽ có ngày tái ngộ. Chẳng
những công chúa mà còn cháu nhỏ cũng không tiện đi theo phò mã. Hãy tạm chia
tay một thời gian, chừng hai mươi sáu tháng nữa, cha con sẽ lại hú hý với nhau.
Thôi vào gặp vợ một tý để còn xuất hành!
Chu sinh bước vào buồng
nước mắt ứa ra. Công chúa lúc ấy đang sửa soạn hành trang, nàng bảo chồng:
- Ở đời ly hợp
là thường, miễn chàng cố gắng là sẽ gặp nhau không mấy chốc. Thiếp sợ
chàng buồn nên đã cho thị nữ là Đồng Nhân làm bạn cho đến ngày tái ngộ. Thiếp lại
tặng chàng một hòn ngọc bích làm bằng chất ngọt của các thứ hoa quý, mùa nực
đeo vào thì mát, mùa rét thì ấm, chàng luôn luôn đeo bên mình xem như là có thiếp!
Chu sinh vội bảo vợ:
- Nàng có thể
theo ta được không? Hay nếu không thì nàng cho ta theo với. Công chúa đáp:
- Không được.
Hiện nay chàng đang còn sự nghiệp của chàng. Còn thiếp phải giúp mẹ bảo
toàn cơ đồ và tính mạng muôn dân. Hai bề chưa vẹn, chưa theo nhau được. Thôi đừng
buồn nữa, ngày sau hạnh phúc còn dài.
Nói rồi dứt áo bước
ra. Chu sinh lại níu lại hỏi:
- Ngày sau sẽ gặp nhau ở đâu và vào lúc nào, nàng có thể cho ta biết trước được
chăng?
Công chúa cầm lấy
hòn ngọc, bỏ vào túi áo chàng và nói: - Trong đó có nói rõ cả.
Khi chợt tỉnh dậy
thì Chu sinh thấy cảnh tượng lo lắng ly biệt vừa rồi đã biến đâu mất. Chàng vừa
thắp đèn soi thì thấy giữa đường có một gói mười lạng vàng. Chàng móc túi, quả
có một viên ngọc màu trắng như ngà, có vân xanh, dài như quản bút, trên có khắc mất câu thơ:
Bao giờ mười vạn
tinh binh,
Nhạc quân trống trận
rập rình ngoài biên.
Phía Tây Hồ-thủy tiến
thuyền,
Hoa-cương nẻo nọ thẳng
liền sang Đông.
Chờ khi báo tiệp
dâng công,
Non sông đề chữ
tương phùng về sau.
Xin đừng đắp nhớ đổi
sầu,
Mười lăm năm lại gặp
nhau đó mà.
Chàng đọc đi đọc lại
hai ba lần vẫn không hiểu nghĩa thế nào. Rồi chàng cố suy nghĩ để tìm hiểu sự gặp
gỡ bấy lâu nhưng cũng không thể ra manh mối. Óc rối như tơ vò, chàng bụng bảo dạ:
- "Rồi thời gian khắc sẽ sáng tỏ. Chả hơi đâu mà nghĩ cho mệt".
Hôm ấy, trời chưa
sáng đã nghe có tiếng khóc. Chàng vội chạy sang nhà láng giềng hỏi tin. Họ cho
biết là người thím của chàng bị cảm chết sắp sửa đem đi chôn. Nghe thấy thế,
Chu sinh quyết định trở lại nhà chú. Người chú thấy cháu ôm sách vở trở về thì
không nén được tức giận, bảo:
- Đã hai năm
nay mày không đoái hoài gì đến tao, sao không đi luôn một thể, còn về mà làm gì?
Chàng nhanh trí tìm
được cách nói dối:
- Hôm qua cháu
chiêm bao thấy cha cháu về bảo rằng chú nghèo lắm, lại sắp có gia biến. Vậy có
số vàng chôn ở nền nhà đào lên đưa về giúp chú. Vì thế bây giờ nghe tin có
tang, cháu mới về.
Nói rồi bày cả mười
lạng vàng lên bàn. Thấy vậy, chú đổi giận ra mừng. Từ đấy, chu sinh yên tâm ở lại
nhà chú học tập. Chàng không mộng mị như trước và cũng không hề rỉ răng với ai
về việc lạ xảy ra. Khoa ấy, Chu sinh đậu hương cống. Chú dạm vợ cho mấy nơi
nhưng chàng nhất thiết từ chối.
Một hôm người chú đi
buôn có đưa về một cô gái mười tám tuổi bị lạc đường. Nghe cô gái xưng tên là Đồng
Nhân, Chu sinh sực nhớ đến lời vợ dặn trước khi chia tay, bèn bằng lòng theo lời
bàn của chú, lấy nàng làm thiếp. Hơn một năm, Đồng Nhân sinh cho chàng một đứa
con trai. Đứa bé càng lớn, Chu sinh càng thấy nó giống với đứa con của chàng ở
nước Hoa-thành do công chúa đẻ với chàng. Chàng tính đốt ngón tay thì vừa hai
mươi sáu tháng, đúng như lời quốc mẫu.
Lúc này cuộc đời thật
của Chu sinh ngày một vinh hiển và giàu thịnh hơn trước. Chàng làm
quan to trong triều, được mọi người nể phục.
Một năm, ở
Tuyên-quang có giặc, vua phong cho chàng làm đại tướng mang hai vạn quân đi dẹp
giặc. Quan quân sắp tới trại thì gặp một con khe ngăn đường. Hỏi dân gần đấy
thì họ cho biết đó là khe Hồ-thủy, trước mặt là Hoa- điệp-cương, đi vòng sang phía Tây hoặc phía Đông một ngày là đến trại giặc.
Nghe nhắc đến những
tên ấy, chàng bỗng nhớ tới những câu khắc trên hòn ngọc. Chàng mới giở ngọc ra
đọc lại bài thơ thì rõ ràng đó là những lời kín đáo bày ra cho chàng mẹo phá giặc.
Chàng cứ theo kế đó hai mặt tiến công, quả nhiên giặc thua to, bị giết và bị bắt
gần hết.
Sau khi thắng trận,
chàng đi thuyền quanh Hoa-cương. Người lái đò cho chàng biết cách đây 15 năm có
một đàn bướm độ vài vạn con nửa đêm ở đâu bay tới rợp trời cho nên gọi là
Hoa-điệp. Chu sinh hiểu ra, vừa lạ vừa mừng, vội sai dừng thuyền lại
nghỉ ngơi. Đêm hôm ấy chàng lại chiêm bao thấy Xuyên Hoa sứ đến đón. Chàng đi
ngay. Lúc đến nơi, chàng nhận thấy cảnh vật lúc này đẹp hơn xưa nhiều: lâu đài
quy mô, dân cư đông đúc. Vừa tới cửa hoàng cung đã có quốc mẫu ra đón
niềm nở: - Phò mã đi dẹp giặc hẳn là khó nhọc. Chao ôi, bây giờ râu
ria mọc đã dài không được trẻ như trước. Ngày tháng chóng thật!
Rồi đó chàng lại gặp
công chúa ở Tây phòng, hai bên chuyện trò ái ân vô cùng nồng đượm.
Qua ngày sau, mãi đến
chiều, Chu sinh vẫn chưa muốn về. Quốc mẫu vào buồng giục chàng cố làm cho xong
việc nước, và bảo:
- Ta nay đã già
lắm rồi. Ta quyết định mười hôm nữa sẽ chia đôi nước, một nửa cho thái tử, một
nửa cho công chúa. Vậy phò mã nhớ trở lại đây mà coi lấy nước mới. Ngày nay dân
sự yên ổn nhưng phò mã cũng nên chú ý phòng ngừa quân địch vẫn thường đột nhập
vào quấy rối trong nước Hoa-thành này.
Chu sinh chỉ kịp dạ
mấy tiếng trong mơ thì đã có người đánh thức dậy. Bọn tỳ nữ vây xung quanh cho
biết là chàng đã ngủ một đêm một ngày. Chàng vội nói tránh cho họ yên
tâm:
- Lâu nay việc
quân mệt nhọc nên ngủ bù, không ngờ làm phiền chư tướng.
Đoạn, chàng trù tính
việc đề phòng cho nước Hoa-thành. Chàng nghĩ, chỉ có loài chim là kẻ thù của bướm
nên ngay sau đó chàng tậu luôn ba mươi khu ruộng.
Thế rồi chàng mang
quân về. Nhà vua khen ngợi công lao chàng và ban thưởng rất hậu. Nhưng vua thấy
ngạc nhiên khi thấy liền đó, chàng dâng biểu xin từ chức. Vua không ép được
đành phải để chàng thỏa chí.
Được thôi quan, một
hôm chàng từ giã chú, đưa vợ con lên thăm vùng Hoa- điệp-cương. Sắp tới nơi, tự
nhiên cả ba người hóa làm ba con bướm trắng bay lên trời. Vượt qua Hồ-thủy,
Xuyên Hoa sứ và cả một đại đội quân nhà bướm tiến ra đón bọn họ.
Hết.
KHẢO DỊ
Trong Liêu trai
chí dị có truyện Công chúa Liên Hoa gần giống truyện của ta:
Một nho sĩ, Đậu Húc,
ngủ ngày, chiêm bao thấy một người lạ đến cạnh giường bảo: - "Tôi là người
của tướng công ở gần đây. Tướng công mời ngài đến chơi". Đậu đi theo, đến
một nơi thấy nhà cửa san sát, lâu đài trùng điệp. Đi quanh quất hồi lâu thấy có
cung nhân, nữ quan đón chờ. Thấy khách đến, một quý nhân ra đón tiếp rất cung
kính. Sau đó theo hai nữ quan vào mấy lần cửa. Đậu nhìn thấy có đề hai chữ
"Quế phủ", một vị vua ngồi trên đền bước xuống đón rồi sai dọn tiệc
đãi. Trong tiệc có sinh ca réo rắt, vị vua trò truyện một lát, bỗng bảo tả hữu:
- "Trẫm có một
câu đối, phiền các quan đối cho: - "Tài nhân đăng Quế phủ" (người anh
tài đến phủ Quế). Mọi người đang nghĩ ngợi thì Đậu đã đối là: - "Quân tử
ái liên hoa" (bậc quân tử yêu hoa sen). Vua rất vui nói: - "Thật là lạ:
Liên Hoa là tên của công chúa, nếu không có túc duyên sao lại hợp đến
thế". Bèn cho gọi công chúa ra chào. Thấy công chúa trạc mười sáu, mười bảy,
đẹp khó có ai sánh kịp, họ Đậu trở nên ngây ngất, ngồi thừ người, quên cả trả lời
câu hỏi của vua muốn ướm gả công chúa cho mình. Khi ra về, nghe viên nội quan
theo tiễn nói lại, Đậu tiếc ngơ ngẩn, và giật mình tỉnh dậy.
Hôm khác, Đậu Húc
đang cùng bạn nằm ở giường, bỗng lại thấy viên nội quan đến gọi đi. Đến cung,
nghe vua nói chuyện gả công chúa, thì anh nhận lời ngay. Tiệc hoa bày ra, hai
bên làm lễ rồi về quán xá. Khi động phòng hoa chúc, Đậu lấy thắt lưng ra đo tay
đo chân vợ. Công chúa bảo: - "Anh làm gì mà như điên thế?". Đáp: -
"Vì hay mộng mỵ nên ghi nhớ cho kỹ để nếu quả là mộng mỵ thì cũng nhớ được lâu".
Bỗng có cung nữ chạy
vào kêu: có yêu quái vào cửa cung. Đậu hoảng sợ đến yết kiến vua. Vua cầm tay
khóc nói: - "Nước lâm nguy biết sao bây giờ". Rồi đưa cho Đậu
xem một tập tâu của đại thần, trong đó nói: có một con mãng xà dài nghìn trượng
đến phía ngoài cung, từng nuốt sống hàng vạn mạng người, đi đến đâu lâu đài
trúc đổ đến đó. Từ xưa chưa có họa nào lớn bằng. Xin bệ hạ kíp rời hoàng gia
ngay đi. Đậu đọc xong tái mặt. Liền đó một cung nữ chạy đến tâu: - "Yêu
quái đã đến". Cả điện kêu khóc như ri. Vua cũng khóc bảo: - "Tiểu nữ
làm lụy tiên sinh". Đậu thẹn thò, trở về thấy vợ cùng người hầu đang ôm đầu
kêu khóc. Vợ bảo chồng: - "Chàng đưa thiếp đi đâu?". Đáp: - "Nhà
tôi nghèo chỉ có ba gian lều cô có ở được chăng?" - "Việc đã gấp như
thế còn lựa chọn làm gì?". Đậu đưa vợ về. Vợ cho là chỗ này yên ổn, xin chồng
làm nhà ngay để vua cha và dân cả nước dời đến ở. Đậu ngần ngại, vợ
kêu khóc thảm thiết. Tới đây, Đậu tỉnh dậy.
Nghe tiếng ong vo ve
trên gối, Đậu kể lại chuyện chiêm bao cho bạn nghe. Bạn khuyên anh nên làm tổ
ong. Làm vừa xong đã thấy ong bay tới liên tục. Dò xem mới biết là bầy ong của
ông lão hàng xóm. Người ta kể chuyện họ Đậu cho ông lão hàng xóm nghe, ông lão
nhìn vào tổ ong của mình thì thấy vắng tanh vắng ngắt, lại có con rắn dài chừng
một trượng, nằm khoanh trong đó bèn bắt giết.
Người Nghệ-an cũng
có kể một truyện, cũng có nội dung gần gũi:
Xưa có một ông quan
ra trấn ở một quận ngoài. Một hôm, quan cùng với khách ăn tiệc uống rượu dưới một
cây hòe lớn. Rượu say, quan nằm ngủ dưới gốc cây ấy. Bỗng chiêm bao thấy có bậc
đại phu nước Đại hòe mời mình vào triều gặp gỡ và cuối cùng gả cho một nàng
công chúa. Ông ta lưu lại đấy làm tướng võ rồi tướng văn, cuộc đời vinh hiển trải
đã mười năm. Khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn còn nằm ở gốc hòe. Nhìn
vào hốc cây thấy có một tổ kiến, trong đó có một con kiến chúa, xung quanh có
những con kiến nhỏ chầu chực và hầu hạ y như ở triều đình mà mình đã trải qua
trong giấc mộng.
Truyện vừa kể chắc
là chịu ảnh hưởng của truyện Thái thú Nam-kha của Trung-quốc:
Ngày xưa có Thuần Vu
Phần là tay chơi bời hào hiệp, hay rượu, nhà ở quận Quang-lăng; gần nhà có một
cây hòe rất lớn, bóng cây um tùm che đến vài mẫu. Nhân ngày sinh nhật, Thuần mời
khách tới đó uống rượu. Rượu say, Thuần được khách dìu về nhà. Nằm một mình,
anh chiêm bao thấy hai vị sứ giả áo tía đến bảo có vua nước Hòe-an triệu. Anh
lên xe đi, xe chui vào hốc cây hòe rồi bỗng tiến đến một nơi có thành quách,
nhà cửa, xe kiệu, người đi lại đông đúc. Đến cửa thành thấy chữ đề "Đại
hòe an quốc". Nghỉ ở quán có hữu tướng tiếp đãi rất hậu. Hữu tướng
cho biết là nhà vua muốn kén làm phò mã. Khi gặp vua thì quả như thế. Ở đây anh
gặp hai người bạn rượu là Chu Biền và Điền Tử Hoa. Công chúa rất xinh đẹp làm
anh vui lòng. Tiếp đấy là một cuộc đời khoái lạc. Ít lâu, vua bổ làm thái thú
quận Nam-kha. Anh xin phép cho hai bạn cùng đi. Đến nơi, cùng hai bạn coi việc
quân vài mươi năm, có chính tích tốt, được dân mến, vua trọng, được ban thực ấp
và phong tước. Vợ anh đẻ được năm trai hai gái, con trai làm quan, con gái gả
cho họ vua, vinh hiển không ai sánh kịp. Rồi có quân nước Đàn-la đến cướp, vua
sai đi đánh. Anh sai Chu Biền đem ba vạn quân đi. Nhưng Biền khinh địch, bị
thua rồi chết. Sau đó, công chúa chết, anh từ chức về triều. Từ đấy buông tuồng
ra oai ra phúc. Có kẻ gièm, vua sai thu thị vệ, cấm đi lại; anh lại
càng oán. Vua nhân khuyên anh về thăm quê, anh không muốn về. Vua cho
biết anh không phải quê ở đây. Anh bỗng hiểu ra, nhận lời. Hai sứ giả áo tía lại
đưa đi. Đến nhà, xuống xe, bỗng giật mình tỉnh dậy thì thấy mình còn nằm mà
khách vẫn còn ở đó. Bèn kể cho họ nghe, mọi người dắt nhau đến hốc cây hòe. Họ
khoét rộng rồi chui vào, càng vào càng rộng, trong có tổ kiến độ vài hộc; có độ
mươi con to, các con kia không dám đến gần, biết đấy là vua quan nước Hòe-an.
Trong cùng có một lỗ xuyên lên cành Nam, ở đây cũng có tổ kiến, biết đấy là quận
Nam-kha. Lại dò theo các cành khác, biết đấy là nơi mình thường đi săn, hoặc là
nơi mình chôn vợ. Anh lại nhớ đến cuộc chiến tranh với nước Đàn-la, bèn cố đi
tìm xung quanh, thì ra đó là một tổ kiến khác ở trong một cây đàn. Nhớ lại hai
người bạn rượu là Chu Biền và Điền Tử Hoa, anh cho người đi tìm, thì thấy Chu
Biền đã chết, còn người kia đang nằm trên giường bệnh.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
Truyện 102. Nợ duyên trong mộng
-----
Comments
Post a Comment