Ngày xưa có một người con gái
đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ
đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi
mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc
hết chỗ nói.
Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ
bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái
phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ.
Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt
quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc
đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. Ông cụ có vẻ đâu từ xa lại,
dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng
vục nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái
nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về.
Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong
thùng đưa cho ông già và nói: - Họ dành phần cho con toàn cơm
cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói.
Ăn xong, ông cụ bảo nàng: - Hồi
nãy làm sao con khóc?
Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống
không trả lời. - Ta là đức Phật, ông cụ nói tiếp, ta thấy con có lòng
tốt. Nếu con muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể
nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm
sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào
đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy
bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng
thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.
Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả
họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận
ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tý. Họ lập tức đổ xô cả
ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn
còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời tới
tấp: - Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi! Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với!
Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng
và dặn họ y như dặn cô gái lần trước.
Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa
trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút
lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già
thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người,
đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn:
- "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!". Nhưng lại có những tiếng
khác: - "Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì!". Lập tức mọi người cầm
đòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng. Từ
đó, cô gái cùng với số người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những của cải
do chúng để lại.
Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng
đành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi
lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho
nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu
léo nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về rừng. Thấy vậy cô gái và mọi
người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm
cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi
cày đặt rải rác ở cổng các nhà.
Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về.
Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa
mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể
nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa
đặt đít xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy
lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa.
Trong những khi lên rừng hái củi,
người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đáng xa, chúng liền
chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoát. Người ta gọi chúng là những con
khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con
khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.
Hết.
KHẢO DỊ
Truyện này được nhiều sách chép
như Truyện đời xưa... của Jê-ni-bren (Génibrel), Mỹ Ấm tùy bút của
Trương Vĩnh Tống và Loại cổ tích hay, mỗi sách chép có khác biệt về tình
tiết. Theo quyển thứ nhất thì để làm cho cô gái trở nên xinh đẹp, ông Tiên
không bảo nàng lội xuống giếng mà bảo đem một cái bánh và một cây nhang cho ông
làm phép. Theo quyển thứ hai, ông Tiên làm phép ấn quyết vào thùng nước rồi bảo cô gái tắm. Đối với vợ chồng phú trưởng giả, ông cũng
không bảo họ lội xuống giếng mà bảo họ kiếm bốn viên gạch lớn đốt đỏ
lên đặt ở mỗi góc nhà một viên rồi hai vợ chồng phải nhảy nhót mãi, đoạn ngồi
lên gạch. Cả ba quyển đều không nói đến họ hàng trưởng giả cũng tham dự vào việc này.
Đồng bào Thổ có truyện Cô gái mồ
côi thương người gần giống với truyện của ta, nhưng kết cục lại không có
việc hóa thành khỉ:
Ngày xưa, người nhà trời có thói
quen xuống trần để thử con người. Hồi ấy có một cô gái mồ côi đi ở
cho người. Vì chủ bạc đãi nên cô gầy gò xấu xí, không ai chơi với. Một hôm có sứ
giả nhà trời hóa làm một ông lão ghẻ lở đến chỗ bọn con gái, bảo chúng
cõng hộ qua khe. Chúng nó lấy làm kinh tởm, nhổ nước bọt chửi rủa ông, chỉ có
cô gái mồ cô vui lòng cõng ông sang. Sau khi qua khe, ông lão trao
cho cô gái hai cái vảy ghẻ bảo hàng ngày hít sẽ có điều hay. Cô gái làm theo và
trở nên béo tốt tươi đẹp. Khi bọn con gái biết được sự tình bèn cố chực đón ông
lão. Gặp ông, bọn chúng xúm nhau làm kiệu đưa qua khe. Nhưng
khi hít những vảy ghẻ của ông lão cho, chúng trở nên xấu xí hết sức,
đến nỗi không được ai lấy làm vợ, trong khi
đó cô gái mồ côi nhờ đẹp nên lấy được chồng quan.
Đồng bào Thổ ở Thái-nguyên có truyện Côi, cô
gái mồ côi, lại có chủ đề mẹ ghẻ con chồng khác với các
truyện trên:
Côi, vì mẹ chết sớm nên chỉ
được ăn mặc rách rưới, đi chăn vịt, trong khi đứa con riêng của dì ghẻ
thì ăn mặc tốt đẹp chỉ ở nhà giữ gà. Một hôm chăn vịt ở bờ suối, Côi nhổ tóc bạc
cho một bà già - sau đó mới biết đó là hiện thân của mẹ mình - bà già
cho Côi áo quần đẹp, vòng xuyến, v.v... Dì ghẻ thấy sự lạ, hỏi Côi lấy ở đâu
ra, Côi đáp như lời mẹ mớm: - "Vịt lội, thì lội theo, vịt lặn, lặn
theo, vịt ỉa thì ăn lấy, vịt đái uống lấy, nên như thế". Dì ghẻ
cho Côi ở nhà giữ gà, để vịt cho con đẻ mình chăn; nhưng càng làm theo lời
Côi thì con lại càng ốm o xấu xí.
Kết thúc câu chuyện chủ yếu là nhằm
chĩa vào mụ dì ghẻ:
Một hôm, hai chị em
giã gạo, chày của Côi vang lên "phịch côông rôông
phịch"... (ý nói sau lấy chồng đẹp sung sướng). Còn chày của con dì lại
kêu: "phịch cùng phịch rất" (ý nói sau này khổ). Nghe thế, dì ghẻ nổi
giận, buộc cha Côi bỏ Côi vào rừng sâu. Nhờ chim muông và thú rừng nuôi nấng,
Côi vẫn sống.
Sau đó, Côi gặp một người thợ săn,
hai người lấy nhau trở nên sung sướng. Từ khi giàu có và lập làng xóm đông đúc,
Côi nhớ đến cha, bèn trồng một gốc bí, bảo bí bò về nhà. Bí bò mãi về
đến nhà bị dì ghẻ chặt đứt, lại mọc ngọn khác bò vào. Mấy lần như vậy. Tức
mình, dì ghẻ bảo chồng tìm gốc mà chặt, nhờ đó ông gặp lại
được Côi. Khi bố trở về, Côi gửi phần thịt biếu cha, lại gửi phần thịt biếu dì.
Được gói thịt, mụ dì chui vào bịch ngồi ăn, nhưng giở ra toàn là rắn
rết và ong, chúng cắn cho mụ thất điên bát đảo. - "Cứu tôi
với!" mụ hét. Chồng đáp: - "Còn ăn miếng gan". - "Cứu tôi với!".
- "Còn ăn miếng dồi". - "Cứu tôi với!". - "Còn ăn miếng
xôi". Đến lúc phá bịch ra thì vợ đã chết giấc.
Từ đó dì ghẻ hối lỗi, đến thăm vợ chồng
Côi, được Côi đối đãi tử tế.
Đồng bào Ba-na (Bahnar) có truyện Đam
Bơ có lẽ cũng là một dị bản xa gần của truyện Sự tích con khỉ:
Đam Bơ ở với mẹ, nhà rất nghèo, phải
đi chăn trâu cho tù trưởng. Bầy trâu không chịu ăn, đói meo, anh sắp
bị tù trưởng hành hạ. Nhờ tiếng chiêng của anh ngân vang đến cõi
tiên, các cô tiên bèn xuống trần chơi với anh, cho anh một cái lá
phép. Anh thổi lên, trâu đang gầy hóa béo. Về nhà thổi lên: mẹ đang già hóa
trẻ và đẹp. Thấy vậy, tù trưởng bắt anh thổi để mình và vợ con được trẻ và đẹp,
nhưng Đam Bơ thổi cho cả nhà thành khỉ. Một con quỷ nhờ anh thổi cho thành
người, nhưng anh thổi cho thành đầu người mình gà, v.v... đều chạy vào rừng ở.
Truyện Sự tích con khỉ của
chúng ta tương tự ít hoặc nhiều với một số cổ tích nước ngoài. Truyện của người
Băng-la-dex (Bangladesh):
Một người có hai vợ: một trẻ, một
già. Hắn rất yêu quý người vợ trẻ. Vì thế, người vợ già bị người vợ trẻ đối đãi
như nô lệ. Một hôm đang cơn giận dữ, người vợ trẻ giật đứt luôn nắm
tóc còn sót lại trên đầu người vợ già rồi đuổi ra khỏi cửa. Người vợ già bỏ đi
vào rừng. Trong khi đi đường, gặp một cây bông, bà ta còn quét xung quanh
gốc cây rất sạch khiến cây tỏ lời cảm ơn. Bà ta còn quét xung quanh một gốc chuối,
một cây tu-la-xi và còn quét dọn chỗ ở của một con bò rừng. Tất cả đều cảm ơn
bà. Sau đó, gặp một ông thầy tu, bà ta kể nông nỗi đau khổ của mình. Thầy tu bảo
bà lội xuống chỉ một lần thôi, dưới cái ao nọ. Khi lên khỏi ao, bà thấy mình có mớ tóc
rất đẹp và trẻ lại. Thầy tu lại cho bà một giỏ quả cây, bảo bà vào nhà mình muốn
lấy giỏ nào thì lấy. Nhưng bà không lấy những giỏ to, đẹp, mà chỉ lấy một giỏ tầm
thường. Không ngờ về sau, bao nhiêu quả cây trong giỏ đều hóa ra vàng và ngọc
quý và dùng không bao giờ hết.
Khi bà về nhà, qua cây tu-la-xi, cây
chúc cho bà về được bình an và được chồng yêu thương đến điên cuồng. Con bò rừng
cho bà hai cái vỏ ốc ở sừng, dặn bà đeo vào cổ tay, chỉ cần lắc vài cái là có đủ
đồ trang sức như ý muốn. Cây chuối cho bà một tàu lá rộng nhất, dặn rằng hễ khi
nào đói cứ trải lá ra là có đủ thức ăn ngon. Sau cùng, cây bông cho bà một cành
của mình với phép màu nhiệm là chỉ lắc vài cái sẽ có quần áo đẹp.
Bà bước vào nhà, người vợ trẻ ngạc
nhiên vô cùng. Khi nghe kể chuyện, chị ta cũng bỏ vào rừng với ao ước được giàu
có và đẹp đẽ. Nhưng điều không may là chị ta lại quên dừng lại ở chỗ ba gốc cây
và con bò rừng. Hơn nữa, đáng lý chỉ lội xuống ao một lần thì chị
ta lại lội đến hai lần để mong được thật đẹp. Vì thế khi ra khỏi ao, chị ta vẫn
không có gì khác trước. Ông thầy tu chả cho cái gì cả. Từ đấy chị ta bị chồng
chán ghét, và dần dần trở thành nô lệ cho người vợ kia.
Một truyện khác của người Ấn-độ
(Pendjab):
Có hai chị em tính tình khác nhau.
Chị là Mô-tho, hay gây gổ khó tính; em là Mun-gô, hiền lành dễ bảo. Một hôm em
rủ chị đi thăm bố già ở nhà anh. Chị không đi, em đi một mình. Dọc đường qua
cây táo, cây bảo bẻ bớt gai cho nó. Cô dừng lại giúp. Sau đó, qua một bếp
lửa, bếp bảo cời bớt tro vì làm cho nó ho, cô cũng làm hộ. Lại đến một cây
pi-pan, cô buộc hộ cho nó cái cành gãy dở. Đến một suối nước, suối nhờ chùi hộ ở
nguồn, vét bùn và nhặt lá rụng. Khi gặp bố, cô nâng đỡ, hầu hạ bố
trong lúc người anh đi gặt vắng. Bố cô ưng ý cho một con trâu và nhiều đồ đẹp
mang về. Khi qua các vật đã gặp lúc đi, mỗi vật đều cảm ơn và đều biếu cô: dòng
suối làm nổi lên mặt nước một tấm vải đẹp; cây pi-pan cho một vòng ngọc
treo sẵn ở cành; bếp lửa cho bánh ngon; cây táo thì cho quả chín ngọt.
Cô chị thấy cô em về với quà tặng
nhiều liền nổi ghen, cũng đi thăm bố già. Qua các vật trên, các vật cầu xin
giúp đỡ, cô không giúp còn trả lời thô lỗ. Đến nhà bố già, ông anh vì không muốn
bố tái diễn việc lấy của cho con gái nên phang gậy vào cô, đuổi ra khỏi cửa.
Khi qua các vật trên, các vật cũng cho quà nhưng mỗi lần cô đụng tay đến thì chả
được gì cả. Cứ thế, vừa đói vừa bị đau cho đến tận nhà.
Cũng trong sách này còn có truyện Hai
chị em Vui và Buồn cũng là một dị bản của truyện trên. Vui là con vợ
cả, Buồn là con vợ lẽ... Một hôm Buồn đuổi theo một gói bông của mẹ cô
phơi, bị một trận gió cuốn đi. Dọc đường gặp một con bò cái, rồi một cây
chuối, rồi một cây bông, rồi một con ngựa cái, mỗi vật đều yêu cầu cô giúp cho
một việc. Buồn sẵn lòng làm giúp. Đuổi đến lầu bà mẹ Trăng, thì thấy gói
bông, cô nói khéo để xin lại. Mẹ Trăng thấy cô lễ phép dễ yêu, bảo cô hụp
xuống sông, khi lên hóa đẹp; bảo cô chọn quần áo sang trọng đẹp đẽ, cô chỉ
lấy một cái chăn (sa-ri) bông; mời cô ăn, lại bảo cô chọn một trong số những
cái giỏ, cô chỉ lấy cái giỏ bé, không ngờ về sau tiền vàng không ngớt
tuôn ra. Lúc về dọc đường con ngựa cái cho một con ngựa con, con bò cái cho một
con bê, cây chuối cho một nải ngon, còn cây bông thì cho một ôm bông. Còn
cô Vui tính cáu kỉnh, ích kỷ, chẳng giúp gì cho bò, ngựa, chuối,
bông khi chúng yêu cầu; lại thiếu lễ phép và tham lam nên chẳng được gì cả,
không những thế, vì lội xuống sông hai ba lần nên hóa già khọm.
Một cô gái kéo sợi đánh rơi mũi quay
xuống giếng vị bà dì ghẻ buộc phải trèo xuống lấy lên. Cũng như truyện trên, cô
đi dọc đường gặp rất nhiều vật, mỗi vật nhờ giúp một việc. Cô khéo léo khi vượt
qua hàng rào cũ kỹ, không làm nó đổ; cô vắt sữa cho con bò khi vú nó đang
căng; cô cắt lông cho một con cừu lông dài quét đất; cô đập cho rụng quả một
cây táo nhánh nặng trĩu sắp gãy, v.v... Khi trèo xuống
đáy giếng, cô không ngờ rơi vào tay một bà chằng (tơ-rôn). Bà chằng bắt cô làm
đầy tớ cho mình, bảo làm nhiều việc khó khăn nhưng cô đều làm
tròn, nhờ chịu khó và tốt bụng với những con chim (quẳng những mẩu bánh cho
chúng ăn). Bà chằng tức mình vì việc gì cô cũng làm xong, đành phải trả công:
cho cô được chọn một trong ba cái hộp. Một con chim giúp cô tránh hộp
cóc nhái mà chọn hộp có của quý. Cô ra về. Bà
chằng không ngờ cô chọn mất hộp quý, vội đuổi theo toan lấy lại và định
"xé cô làm nghìn mảnh". Nhưng cây táo bảo cô nấp dưới nhánh của nó
làm cho bà chằng tìm không ra. Sau đó con cừu bảo cô nấp dưới lông, con bò bảo
nấp dưới vú, tiếp đến hàng rào cũng bảo cô nấp sau rào, nên cô gái
về nhà vô sự.
Con gái bà dì do kiêu ngạo không chịu
giúp ai cả nên kết quả bị bà chằng giết chết.
Truyện Bà Hôn (Frau Holl)
do Grim (Grimm) sưu tập cũng cùng dạng với truyện trên. Ở đây cô gái qua một lò
bánh. Những cái bánh ngọt gọi cô: - "Đưa tôi ra với kẻo tôi cháy đấy!".
Cô lần lượt đưa chúng ra. Đến một cây táo đầy quả, cây táo cầu khẩn: -
"Rung cho quả của tôi rụng mấy". Cô gái làm theo....
Một truyện của người Ca-ri-en
(Cariels) Miến-điện (Myanmar):
Một cô bé ra sông múc nước tuột tay
đánh rơi chiếc thùng xuống dòng nước chảy. Cô không biết lội đành chạy men bờ,
đuổi theo chiếc thùng trôi. Chạy mãi, đến một đập nước của người khổng lồ, cô bị
hắn bắt. Sắp bị ăn thịt, cô kể chuyện của mình cho người khổng lồ nghe. Hắn bèn
tha cho cô bé rồi đưa về nhà. Vợ người khổng lồ thấy cô cũng thèm ăn lắm, nhưng
cô được khổng lồ chồng bảo vệ và sau thành con nuôi của hắn.
Một hôm, hai vợ chồng khổng lồ đi vắng
để con gái ở lại và dặn đừng nhìn vào hai cái sọt để ở góc buồng.
Nhưng cô gái không ngăn được tính tò mò: cô thấy một sọt đầy vàng bạc còn một sọt
đầy sọ người. Sau đó, cô gái xin phép họ trở về quê hương. Khổng lồ chồng cho
phép, nhưng khổng lồ vợ còn bắt cô phải bắt chấy cho mình trước khi
lên đường. Cô gái thấy trên đầu mụ là cỏ một ổ rắn rết rất ghê tởm. Cô đi kiếm
một cái búa chém vào lũ rắn rết đồng thời cũng làm cho mụ ta choáng
váng. Thế rồi cô được về. Trước khi đi, khổng lồ chồng bảo cô vào
buồng, cho chọn lấy một cái gì tùy thích. Cô gái vốn đã biết cái giỏ cũ có thể
làm đầy vàng bạc, nên nói: - "Hai ông bà đã già không đan được giỏ, con
xin lấy cái giỏ cũ". Khổng lồ vợ cũng dặn: - "Nếu mày muốn đẹp thì khi
đến sông nước đen hãy chải tóc và đánh răng, đến sông nước đỏ hãy chùi môi và
sau cùng đến sông nước trắng hãy xuống tắm!". Cô gái nghe lời, khi về đến
nhà trở nên giàu có và đẹp đẽ.
Bà con nghe tin cô giàu kéo nhau đến
thăm. Cô đong cho mỗi người một chén đầy vàng bạc. Nghe cô kể chuyện, một chàng
trai trẻ tuổi quyết định đi thử một phen để cũng được giàu và đẹp như cô. Hắn
đến nhà khổng lồ và cũng được nhận làm con nuôi. Cuối cùng hắn cũng được
họ cho về quê với một chiếc giỏ. Vì chưa từng nhìn vào bao giờ nên hắn bắt
chước cô gái là chọn một chiếc giỏ cũ. Hắn lại không chú ý đến lời dặn của
khổng lồ vợ về những việc phải làm ở mỗi khúc sông mà hắn sẽ lội qua. Hắn trèo
lên xe để về cho được mau. Nhưng khi về đến nhà, mở giỏ ra thì
thấy đầy những sọ người. Đang kinh ngạc thì người khổng lồ đã
đột ngột xông tới bắt hắn ăn thịt.
Ở truyện của người Hung-ga-ri
(Hongrie) thì cô gái gặp một con chó nhờ lấy hộ mẩu xương mắc
trong cổ. Khi gỡ được, nó biếu cô mẩu xương, dặn lúc nào bối rối
đặt xương lên miệng nó sẽ bảo phải làm gì. Gặp một cái lò, lò
nhờ cô quét hộ tro, quét xong, lò cho cô một cái còi, dặn khi nào cần chỉ
thổi một tiếng là có thể tàng hình. Gặp một con kiến, kiến nhờ đưa lên khỏi hố sâu, và tạ ơn bằng
cách dặn cô, hễ nghe tiếng xào xạc như tiếng gió thì coi chừng có kẻ đuổi theo.
Đến ngôi nhà vàng của mụ phù thủy,
cô nói năng rất lễ độ, xin một việc làm. Mụ thuê cô quét dọn mười hai gian buồng,
nhưng dặn chớ vào buồng thứ mười ba. Nhờ có mẩu xương con chó tặng, cô thắng được
tính tò mò. Sau khi làm việc cho mụ một năm (kỳ thực chỉ có ba
ngày), mụ lấy ra ba cái hòm bảo chọn một, cô chỉ chọn hòm gỗ
thường. Lúc về dọc đường nghe tiếng xào xạc sau lưng, biết có nguy biến, cô lấy
còi ra thổi, lập tức biến hình làm cho mụ phù thủy tìm
không ra. Lúc về, giở hòm ra thì là một hòm vàng và áo quần bằng gấm vóc.
Còn cô gái con mụ dì ghẻ độc
ác cũng ra đi, nhưng vì chả giúp ích gì cho những kẻ đang yêu cầu cô giúp
đỡ nên cuối cùng tuy không bị mụ phù thủy giết chết nhưng cô cũng phải
chạy bán sống bán chết, mình đầy máu me; về chưa đến nhà đã mở hộp
vàng (do cô chọn) ra xem, thì một con rắn trườn ra cắn đuổi làm cô chêt giấc.
Một truyện của Pháp do Pe-rôn
(Perrault) kể:
Một người đàn bà góa sinh được hai
cô gái. Cô lớn giống mẹ, hợm hĩnh không ai chịu được. Còn cô bé hiền
lành xinh đẹp bị mẹ ghẻ bỏ, cho ăn với đầy tớ và bắt làm ốm xác cả ngày.
Một ngày cô bé phải hai buổi đi gánh
nước, xa chừng nửa dặm. Một hôm đến suối, nàng thấy một bà rách rưới đến xin ngụm
nước. Nàng rửa sạch gầu, ra tận chỗ xa múc nước trong rồi hai tay nâng gầu cho
bà ta uống. Bà già nguyên là nàng tiên giả dạng, uống xong bảo nàng: "Con
đẹp mà tử tế, ta ban lộc cho con từ rày hễ mở miệng nói
thì ra hoa, ra ngọc".
Khi cô bé trở về bị mẹ mắng, vội chắp
tay xin: "Con lạy mẹ, mẹ tha cho con!". Vừa nói bấy nhiêu tiếng thì
có hai cành hoa và hai viên ngọc sáng ngời từ miệng văng ra. Bà mẹ ngạc
nhiên hỏi chuyện; nàng kể hết sự thật. Bà vội giục cô gái lớn là
Phăng-xông ra suối. Cô mang bình bạc đi múc nước. Khi đến nơi, bỗng có một bà
sang trọng xin giải khát. Chính là nàng tiên vừa rồi hóa thành người khác để thử
cô. Cô nói: - "Khéo cái bà này, dễ tôi đến đây để múc nước cho bà uống
đó sao. Mà bà có uống thì ghé xuống đây mà uống". Nàng tiên đáp: -
"Con không ngoan một tý nào. Vậy thì ta ban cho là hễ mở miệng
ra nói sẽ nhả ra rắn và cóc".
Thấy con gái lớn về, bà mẹ đon
đả: - "Thế nào con?". Cô vừa đáp: - "Mẹ ạ!" thì
đã có hai con rắn và hai con cóc từ trong mồm văng ra. Bà mẹ hốt hoảng: -
"Trời ơi! Cái gì thế này. Chắc là con ranh con phản chị đây!".
Bà mẹ tìm con gái bé để đánh. Nàng
chạy trốn vào rừng. Giữa lúc đó thì hoàng tử đi săn về qua đấy. Hoàng tử thấy
cô gái đẹp, dừng ngựa lại bởi vì sao mà khóc. Nàng đáp: - "Mẹ tôi
đánh đuổi tôi". Hoàng tử thấy ở miệng rơi xuống năm hạt trân châu, rất lấy
làm lạ. Khi nghe rõ câu chuyện, hoàng tử đưa nàng về cung, tâu
trình vua cha xin lấy làm vợ.
Còn cô chị ngày một bẳn tính làm cho
mẹ cũng sinh ghét, đuổi đi. Hắn long đong đây đó không ai muốn chứa, sau
vào xó rừng mà chết.
Một loạt truyện khác có nội dung gần
gũi với loạt truyện kể trên, ở chỗ nhân vật đều là một cặp chị em tốt và xấu và
mỗi người chịu kết quả báo ứng tương xứng với tính nết của họ.
Truyện của ta: Hai chị em:
Có hai chị em, chị giàu bỏ mặc em
nghèo không giúp đỡ. Em đi xin không ai cho cả. Đi mót khoai thì có một con rắn
chui vào rổ. Em bảo rắn: - "Rắn ơi! Ta và con ta đói lắm, nếu mày
cho ta làm thức ăn thì cứ nằm yên để ta đưa về nấu". Nấu xong thì rắn đã
hóa thành thỏi vàng. Từ khi giàu, em mời chị tới chơi nhà. Khi biết được nguồn
gốc giàu có của em, chị cũng bắt chước cầm rổ đi mót khoai. Cuối cùng cũng có một
con rắn chui vào rổ, và chị cũng nói với rắn như trên, rồi đưa về nhà bỏ vào nồi
nấu lên. Không ngờ lúc này rắn lại hóa làm nhiều con khác, bò ra đầy một nhà cắn
chết chị.
Truyện của người Tia-rôn (Tirols):
Một cô gái đi hái quả rừng với người
anh. Cô trả lời dịu dàng lễ phép về những câu hỏi của bà thánh Đồng
trinh, trái lại, người anh trả lời vô lễ. Bà thánh cho cô em một hộp sách màu vàng,
người anh một hộp đen. Anh mở hộp ra thì thấy có hai con rắn bò ra cắn
chết, còn em mở hộp ra thì có hai nàng tiên đưa em lên trời.
Truyện của người Ê-cốt-xơ (Écosse):
Một nàng công chúa bỏ nhà ra đi vì bị
dì ghẻ xấu bụng, ghen tị bạc đãi. Dọc đường gặp một ông già, nàng vui lòng chia
thức ăn của mình cho ông. Ăn xong, ông rủ công chúa ngồi trên bờ một cái giếng,
bỗng chỗ dưới mặt nước trồi lên một cái đầu nhờ công chúa gội và chải tóc
hộ. Công chúa sẵn lòng làm việc đó. Khi đã tươm tất, cái đầu khen nàng, hứa cho
nàng mỗi lần mở miệng nói rơi ra một viên kim cương. Lần thứ hai một
đầu khác cũng nhờ gội và chải hộ rồi trả ơn mỗi lần nói một viên
minh châu. Lần thứ ba lại một đầu khác, tặng mỗi lần nói một viên ngọc.
Con gái bà dì ghẻ thấy thế cũng xin
đi thử. Nhưng cô đối đãi với ông già không được tốt, chải tóc cho
ba cái đầu cũng làm nguệch ngoạc, nên kết quả mỗi lần nói thì văng ra một con
cóc một con nhái, v.v...
Truyện của người Xéc-bơ (Serbes):
Một cô gái đối đãi tốt với một con rồng,
giúp việc cho nó trong nhiều ngày, được nó thưởng cho một cái hộp do cô tự chọn
lấy trong những cái hộp. Cô gái chọn lấy một hộp nhẹ nhưng lúc về mở ra thấy đầy
một hộp tiền vàng. Cô gái con bà dì ghẻ cũng đi giúp việc cho rồng nhưng
làm những điều không tốt. Lúc về cũng được rồng cho một trong những cái hộp. Cô
chọn hộp nặng nhất, về mở ra thì có hai con rắn chui ra, mổ vào mắt
cô và mắt bà mẹ.
Truyện của người Iếc-lăng (Irlande):
Một cô gái bị dì ghẻ quẳng xuống giếng.
Tỉnh lại, cô thấy mình ngồi trong một cái trại rất đẹp. Cô tỏ ra thương người
và dễ bảo đối với những người và vật mình gặp ở dưới đó. Cuối cùng,
đến một chỗ có một mụ phù thủy, cô giúp việc cho mụ, được mụ trả công, cho chọn
một trong ba cái hộp. Nhờ có người bảo trước, cô chọn đúng hộp cuối cùng, là hộp
có vàng. Cũng nhờ có người bảo trước, cô tránh khỏi bị mụ phù thủy đuổi theo bắt
lại. Người con gái bà gì ghẻ thấy thế, cũng bảo mẹ quăng mình xuống giếng,
nhưng vì tính kiêu kỳ khó chịu với mọi người, nên cô chỉ gặp toàn những cái
không may. Về nhà, cô suýt chết vì cái hộp vàng mà cô chọn, vì mở ra
toàn cóc rắn bò ra đầy nhà.
Truyện của người vùng núi Cô-ca-dơ
(Caucase):
Có hai cô gái, một siêng một lười.
Cô siêng kéo nước ở giếng không may dây đứt, thùng trôi. Sợ bị mắng, cô nhảy xuống
giếng mò cái thùng. Không ngờ ở dưới giếng có một tòa nhà, người chủ tòa nhà nhờ
cô giúp việc và cô được trả công một chiếc nhẫn quý, lại được ông cho đầy cô-pếch
vào thùng. Cô lười cũng làm theo như lời cô siêng kể lại nhưng chỉ mang về một
thùng nước đá.
Truyện của Thổ-nhĩ-kỳ (Turquie):
Do dì ghẻ xúi giục, một cô gái bị bố
bỏ vào rừng sâu. Cô đi lạc vào một cái hang của bà chằng. Cô chào bà chằng bằng
"mẹ". Bà chằng thấy cô ngoan ngoãn dễ tính, bèn nuôi cô như con.
Trong hang có những con rắn, nhưng do tốt bụng nên chúng không làm hại. Bà chằng
rất bằng lòng. Một hôm hỏi cô muốn gì. Cô đáp: - "Muốn về với bố".
Bà chằng bèn cho cô về với một cái hộp. Lúc về, không ngờ mở ra được
một hộp vàng và đá quý.
Con gái bà dì ghẻ thấy thế cũng muốn
được may, nhưng tính khí cô bị mọi người ghét. Lúc về bà chằng cũng cho một hộp,
nhưng đến nhà mở ra thì có những con rắn bò ra cắn chết cả hai mẹ con.
Truyện của người Nhật-bản Con
chim sẻ bị cắt lưỡi:
Một ông già không con, nuôi một con
chim sẻ làm con mà ông rất yêu. Một hôm, vợ ông đi giặt về thấy mất một món ăn.
Hỏi thì chim nói thật là mình đã ăn vì món ăn đựng vào bát của nó. Bà già bèn cắt
lưỡi chim và đuổi đi. Ông già đi vắng về thấy mất chim, cất công đi tìm. Tìm được
chim, chim đưa ông về nhà mình. Cả nhà chim tiếp đãi rất hậu, cho ông ăn ngon,
uống rượu (xa-kê), lại tổ chức nhảy múa điệu chim sẻ cho vui. Lúc ông về, chim
đưa ra hai cái sọt kín, để ông chọn lấy một. Ông già nghĩ mình già yếu chọn
cái sọt nhẹ. Khi về hóa ra đầy một sọt vàng bạc và vật quý. Nhưng vợ
trách chồng sao không lấy cái sọt nặng; sau đó, bà già cũng cất công đi tìm
chim sẻ, cầu xin chim cho mình một cái sọt như chồng.
Chim cũng đưa ra hai cái sọt cho chọn một. Bà già chọn cái sọt nặng. Khi về, mở ra
thì một lũ rắn rết và quỷ từ trong sọt nhảy ra làm cho bà chết giấc.
Một loại truyện nữa giống với Sự
tích con khỉ nhưng thường kết hợp với một số mô-típ của truyện Tấm
Cám, cũng phổ biến ở nhiều dân tộc. Sau đây là một ít ví dụ:
Truyện của đồng bào Thái: Nàng
Khao, nàng Đăm, các truyện Ý Ưởi, Ý Noọng, Ý Đớn, Ý
Đăm (Thái), Tua Gia, Tua Nhi (Tày), Gầu Nà, Gầu Rềnh (Mèo), Ò
Pèn, Ò Kín (Nùng) đều có những hình tượng giống, chỉ khác đôi chút về cách kể:
Có hai chị em: chị là Đăm, con riêng
dì ghẻ, thì lười, xấu tính, em là Khao, con vợ cả, thì
chăm chỉ hiền lành. Vì việc bắt ếch, Đăm đã làm cho bố hiểu lầm, giết
vợ cả. Mồ côi mẹ, Khao bị dì đối xử rất tệ. Cùng nhau đi bắt cá, Đăm không bắt
được gì, nhưng lừa Khao bảo Khao xuống tắm cho sạch bùn, rồi đánh
tráo giỏ cá. Lần thứ hai bố đi buôn vắng, Khao khóc nước mắt đầy
niêu đầy chậu. Còn Đăm không khóc nhưng lại mấy muối hòa đầy
chum đầy vại, nói dối với bố đó là nước mắt của mình. Bố nếm thấy mặn
khen Đăm có hiếu. Nghe lời xúc xiểm của vợ, bố bỏ Khao vào rừng sâu. Ở đây Khao
gặp mẹ bấy giờ đã hóa hổ. Hổ giúp Khao lấy chồng là "tạo" Khun
Chương, lập thành bản mường đông đúc giàu có. Đến đây câu chuyện cũng có chi tiết
trồng cây bầu, bầu bò về nhà bố. Bố lúc này đói rách, lần theo dây bầu
tìm đến nhà Khao, được Khao tiếp đãi rất hậu: lên nhà bằng thang vàng thang bạc,
ngồi trên ghế mây ghế song, gắp bằng đũa ngà đũa ngọc, và khi về, cưỡi
ngựa bằng yên vàng yên bạc với nhiều tặng vật quý (không có chuyện
tặng dì ghẻ thức ăn hóa rắn như truyện Côi, cô gái mồ côi nói trên).
Đăm thấy Khao giàu có cũng tìm đến
nhà, tuy không bị Khao đuổi, nhưng không được đối đãi tốt: lên nhà bằng thang
lau thang sậy, giữa chừng thang gãy, bị bọ chó đốt; ngồi ghế gãy, ngã, bị
chó, mèo cắn; ăn cơm bằng đũa nứa đũa tre, nứa cứa đứt mồm; khi về được Khao
cho cưỡi dê, dê đâm vào bụi này vũng kia rất cực khổ1.
Về nhà, Đăm xui bố mời Khao về thăm.
Đăm bảo Khao trèo cây bồ quân hái quả cho bố rồi chặt gốc. Khao chết, theo
phong tục, Đăm thành vợ tạo Khun Chương. Khao hóa thành chim cu quanh quẩn theo
chồng. Bị Đăm giết, chim hóa cây tre ngà cho tạo mắc võng nằm.
Đăm đốt cây tre. Bà cụ láng giềng đi xin lửa cầm thanh tre về, than rơi vào chậu
nước hóa thành cô gái đẹp. Cô gái xin bà cụ giấu kín cho. Nhưng một hôm cô gái
dệt vải đánh rơi thoi xuống dưới sàn nhà. Vừa lúc con của tạo (do
Khao đẻ ra) chơi gần đấy, nhặt hộ. Con của tạo thấy có bàn tay thò
xuống sàn giống tay mẹ nó, liền đi mách bố. Kết quả hai vợ chồng lại
gặp nhau.
Lúc này Đăm tuy ở với chồng nhưng
không được chiều chuộng nữa. Một hôm hỏi Khao tại sao môi đỏ? Đáp: Vì lúc trước
đi chăn vịt ăn phải cứt vịt. Đăm nghe lời, cố nuốt cứt vịt, môi càng thâm sì. Lại
hỏi sao có áo đẹp? Đáp: Vì để trâu ăn mất áo nên trời cho áo đẹp. Đăm làm theo,
không thấy Trời cho áo. Đăm thò tay và đít trâu để lấy áo bị trâu lôi đi khắp
nơi, cuối cùng không được gì, trần truồng chạy về. Hôm khác lại hỏi: Sao lại trắng
trẻo đẹp đẽ? Đáp: Vì tắm nước sôi. Đăm làm theo, bị bỏng chết. Khao
làm mắm đem về biếu dì, dì ăn khen ngon. Khi mắm gần hết thấy đầu lâu
con, lăn ra chết.
Người Miến-điện (Myanmar) còn có một
truyện Quạ vàng có cả những tình tiết của truyện Nàng Khao
nàng Đăm trên lẫn những tình tiết của truyện Cây khế
Một bà góa có cô con gái xinh xắn
tính điềm đạm, một hôm mẹ bảo con ở nhà trông sàng phơi lúa ở sân, đừng
để chim ăn mất. Bỗng có một con quạ vàng đến ăn, đuổi mấy cũng không đi, chỉ một
chốc là hết sạch. Cô òa khóc: - "Mẹ tôi nghèo lắm chỉ trông nhờ vào chỗ
thóc này". "Ta sẽ đền cho. Mặt trời lặn hãy đến gốc me ngoài
làng, ta sẽ đưa đi". Đúng hẹn, cô gái đến gốc me thấy có một ngôi nhà vàng
nhỏ trên cây me. Quạ thò cổ ra mời lên và hỏi: - "Muốn dùng thang vàng,
thang bạc hay thang đồng?" - "Tôi nghèo khổ có thang đồng đã
quý". Quạ bắc thang vàng, cô trèo lên. Quạ mời ăn cơm, hỏi: - "Muốn
dùng mâm vàng, mâm bạc hay mâm đồng?" - "Tôi nghèo khổ có mâm đồng
đã quý". Quạ dọn ăn bằng mâm vàng. Ăn xong, quạ lấy ra ba cái hộp: lớn, vừa
và bé cho chọn một đưa về biếu mẹ cô. Cô chọn cái bé nhất, rồi
ra về không quên tỏ lời cảm ơn quạ. Đến nhà, cô đưa hộp cho mẹ, mẹ mở
ra được 100 hạt ngọc đỏ rất quý. Từ đấy họ trở nên giàu có.
Trong làng có một bà góa khác giàu
có, có cô con gái tham lam, nóng nảy. Nghe kể chuyện, cô cũng đem sang thóc ra
phơi. Vì lười nên cô để cho chim chóc ăn mất, khi quạ đến chỉ còn một
nhúm. Tuy vậy quạ cũng ăn. Cô bảo: - "Ăn hết thóc nhà tôi phải
đem giàu có đến cho nhà tôi". Cũng như trên, quạ cũng dặn cô vào lúc mặt
trời lặn đến cây me ngoài làng mà nhận quà. Cô đến, quạ cũng mời
lên mà hỏi: - "Thang vàng, thang bạc hay thang đồng?" Cô nói: -
"Thang vàng". Quạ chỉ buông thang đồng. Quạ mời ăn, cũng hỏi: -
"Mâm vàng, mâm bạc hay mâm đồng?" - "Mâm vàng". Chỉ được
mâm đồng. Thức ăn ngon nhưng ít, cô không thỏa mãn. Sau đó quạ cũng đưa ra ba cái hộp. Cô vồ lấy cái hộp
lớn nhất rồi hối hả xuống thang trở về không có một lời cảm ơn. Nhưng về
nhà, mẹ con mở hộp ra thì một con rắn chui ra phun phì phì.
Một truyện khác sưu tầm ở vùng
Cô-ca-dơ (Caucase):
Một dì ghẻ đối xử tệ với con gái chồng,
cô phải ăn đói mặc rách. Một hôm con bò cô chăn thấy cô khóc, hỏi lý do. Cô kể
cảnh khổ của mình. Bò bảo: "Trong một cái sừng của ta có mật ong,
bên kia có bơ, cứ lấy mặc sức". Dì ghẻ thấy cô ngày một khỏe, lại
bắt phải kéo mỗi ngày một thúng len. Một hôm bò chạy lên nóc một nhà kia (nhà
nông dân Cô-ca-dơ thường làm dưới đất) cô gái đuổi theo, đánh rơi con quay xuống
nhà, cô cúi nhìn xuống thấy một bà già. Cô chào hỏi rất lễ phép, bà già là một mụ phù
thủy (đê-vi) bảo cô xuống mà nhặt. Vì cô dễ yêu nên bà già rất mến, bảo cô
nhúng đầu rửa tay trong một cái giếng, không ngờ tóc và tay đều trở nên vàng.
Bà dì sai con gái riêng đi chăn bò,
và cũng tìm đến nhà bà già. Vì cô vô lễ lại xấu tính nên được rửa vào một thứ
nước hóa ra đen như hắc nô và mọc sừng trên đầu. Lúc về dì giận, giết chết con
bò. Trước khi chết, bò dặn cô gái tóc vàng chôn xương của mình. Một hôm
có đám hội, cô gái đào lên được quần áo và giày đẹp, mặc đi
dự hội. Và sau đó cũng xảy ra chuyện mất giày, cuối cùng được lấy
hoàng tử như truyện Tấm Cám
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Book Introductions by the Owner of Vietnamese Fairy Tales:
Complete Collection of Vietnamese Fairy Tales - A Treasury of Legends and Folklore
Discover over 240 enchanting Vietnamese fairy tales, translated into English and beautifully illustrated. This collection is a treasure trove of legends and folklore that reflect Vietnam's rich cultural heritage. Available as an ebook on Kobo Books and Apple Books.
Vietnamese Fairy Tales - Stories in English and Vietnamese
This bilingual collection features 162 Vietnamese fairy tales in both English and Vietnamese, with stunning illustrations. Ideal for language learners and cultural enthusiasts. Available as an ebook on Kobo Books and Apple Books.
The Treasury of Fables
An enchanting collection of timeless fables, written in English and beautifully illustrated. Perfect for all ages, these stories offer valuable moral lessons. Available as an ebook on Kobo Books and Apple Books.
Thank you for your support, and happy reading!