Ngày xưa ở làng Đa
hòa có một ông thầy phù thủy cao tay, tên là Dọng.
Không những ông có
nhiều phép lạ mà còn có lòng thương người. Từ lâu, ông được bầu làm hương trưởng,
và được dân trong vùng kính phục. Hồi ấy làng Đa-hòa gặp mấy năm hạn hán, mùa mất
liên tiếp, dân tình cơ cực.
Nhiều người phải đem
vườn ruộng đi cầm đi bán. Nhưng giá gạo ngày một cao, ruộng ngày một hạ. Cuối
cùng ruộng đất của dân đều vào tay mấy tên trọc phú. Thấy vậy, ông Dọng nghĩ
cách để cứu giúp người nghèo. Ông bảo bọn nhà giàu:
- Thần thánh
phù hộ cho các người, bao nhiêu ruộng nhà nghèo đều lấy về ban cho một số người
có của. Đó là lộc thánh. Nhưng nếu không biết tạ ơn thì rồi có lúc sẽ bị thánh
phạt đấy. Biết ông là người có thể thông được với thần, bọn nhà giàu
lo sợ, hỏi ông:
- Muốn tạ ơn thánh
thì phải làm gì? Ông Dọng đáp:
- Làng ta vốn
không có đình. Thánh ngự về không có cái mà ở. Vậy phải mau mau dựng
một cái đình.
- Dựng đình tốn kém
lắm sao có thể làm nổi.
- Nhà giàu bỏ của,
nhà nghèo bỏ công, mỗi người vun đắp một tý thì việc lớn không mấy chốc
mà thành. Nếu được như vậy, tôi tuy bất tài cũng xin đứng ra đốc công.
Bọn nhà giàu nghe lời
ông. Chúng bèn họp làng quyết định dựng đình: những người có của thì quyên tiền,
còn người nghèo thì gánh đất gánh cát. Ông Dọng thân hành thu góp tiền nong và
làm người đôn đốc. Ông bảo bọn trọc phú:
- Thần thánh đều
có con mắt, "sởi lởi trời gởi của cho, quăn co trời gò của lại".
Hằng tâm hằng sản ai
bỏ nhiều thì được phúc nhiều.
Chúng nghe nói đều
thi nhau quyên những món tiền lớn và góp lại trao cho ông. Nhưng thu được bao
nhiêu ông phân phát cho dân đói bấy nhiêu. Ông bảo họ gánh đất đắp thành nền
đình, xung quanh trồng bờ giậu cho kín, ở sân đình trồng các thứ cây cối kể cả
các loại cây dây như cây bìm hìm, v.v... Đoạn, ông hẹn với bọn trọc
phú ba tháng nữa đình sẽ hoàn thành. Bọn trọc phú thấy ông phân phát
hết tiền thì sinh nghi, nhưng thấy ông nói cứng, thì lại nửa tin, nửa ngờ. Vả
xưa nay ông chưa từng thất hẹn với ai, nên cũng không dám hỏi.
Thời gian trôi qua,
nền đình đã đắp xong, tiền quyên góp đã nhiều, hạn cũng sắp hết mà chưa thấy động tĩnh gì cả. Thấy gỗ lạt không có một que, gạch ngói chẳng
có nửa mảnh, bọn nhà giàu đến thúc ông Dọng. Ông chỉ đáp gọn lỏn: -
"Đình khắc có đình! Ai sinh sinh sự sẽ sự sự sinh!".
Một số phú thương ở
làng bên cạnh là làng Vạn-phước trước đây cũng bỏ những số tiền lớn quyên vào
công việc làm đình ở Đa-hòa để mong được thánh ban lộc, nay đợi mãi không thấy
đình, chúng lấy làm nóng ruột, liền đến vặn ông Dọng:
- Chúng tao qua
đây buôn bán thấy việc phúc đức, nên cũng vón tay vào để vo tròn quả phúc.
Không ngờ mày "nhũng lạm" đi mất cả rồi, chỉ ngồi trơ thổ địa
nói phét.
Nói rồi chúng xúm lại
thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh ông sưng cả mặt mũi. Ông Dọng đáp:
- Đình khắc có
đình! Nhưng đánh người là có tội, đánh bậc "cao niên" tội lại càng nặng.
Kẻ nào đánh ta thì phải đền tội. Ta không nói chơi đâu!
Đoạn ông mang gậy
nón đi sang làng Vạn-phước để bắt đền. Tới nơi, ông vào đình Vạn-phước, ngả
gậy nón ngay ở gian giữa mà ngồi.
Rồi ông cởi áo giở
chỗ bị đánh phân vua với những người dân Vạn-phước có mặt:
- Các ông các
bà xem. Đánh người không phải là chuyện chơi. Bọn những tên Giáp tên Ất
ở làng này vô cớ gây sự đánh ta. Kẻ nào sinh sinh sự thì sự sự sinh!
Sẽ phải đền đình!
Nói thế rồi ông cứ
ngồi ở giữa gian vót đũa và xe chỉ. Có ai hỏi làm thế để làm gì thì ông trả lời
"đính nèo" (tức nói lái là néo đình).
Bọn lý hào làng Vạn-phước
được bọn phú thương xúi giục, ra đình đuổi ông Dọng đi. Ông không đi, nói:
- Các ông phải trả lời cho tôi cái chuyện người làng này, những tên Giáp tên Ất,
tự dưng vô cớ đánh tôi. Tôi được rửa nhục rồi thì sẽ đi ngay!
Chúng hỏi:
- Ông muốn rửa
nhục thế nào?
- Kẻ nào đánh
tôi thì phải làm đình để đền.
- Không làm
đình thì sao?
- Không làm
đình thì vay tạm đình này rồi sẽ đền sau.
Cho đòi hỏi của ông
là vô lý nên chúng không chịu xử. Cuối cùng chúng lấy thế đông đến đuổi ông đi.
Ông đợi cho họ tập hợp đông đủ, rồi mới thủng thỉnh nói:
- Bây giờ tôi sẽ
cắm cái gậy này xuống trước sân đình. Nếu làng ta nhổ được gậy lên thì tôi xin
đi ngay.
- Nếu không
nhổ được thì sao?
- Thì mất đình.
Họ bảo "được".
Hai bên làm giấy ký kết.
Rồi đó, ông Dọng ung
dung bước ra sân cầm cây gậy trúc của mình cắm phập xuống sân đình, và nói: -
"Nhổ đi! Cho các người nhổ đi!".
Vừa thấy thế, một
tên hào cường trẻ tuổi xắp tay áo lên hùng hổ:
- Cần gì phải
nhiều người mất công. Xin mời các quan viên hãy ngồi nghỉ, chỉ một mình tôi nhổ
cũng đủ. Này này, lão già hãy trông đây, rồi có đường có nẻo cút ngay!
Và hắn chạy tới,
dùng một bàn tay nắm lấy cây gậy để nhổ, nhưng không được. Sau đó, hắn lôi bằng
cả hai tay, nhưng cũng không nổi. Sau, hắn ôm cả người vào rán sức lắc mà cũng
không chuyển. Mồ hôi nhễ nhại, hắn gọi những người xung quanh vào giúp sức. Ông
Dọng nói:
- Ta thách tất
cả bọn bất nhân chúng mày!
Mọi người liền xúm
xít lại quanh tên hào cường, một người, hai người tới hàng chục người; nhưng lạ
thay dù có đến hàng chục bàn tay, chiếc gậy vẫn không nhúc nhích. Bọn lý hào mệt
nhoài. Chúng đánh mõ cho trai làng đổ ra buộc thừng mà kéo, song cũng chẳng ăn
thua. Cuối cùng, chúng bàn buộc thừng vào cổ trâu, ra roi cho trâu kéo, tuy vậy
chúng chỉ làm một công việc vô ích: mọi dây thừng đều đứt, còn gậy của ông vẫn
vững như trời trồng.
Ông Dọng phá lên cười:
- Thế là thua
cuộc rồi nhé!
Rồi ngoảnh mặt về
phía dân, ông nói:
- Xin đồng dân
nhớ cho, nếu làng ta có mất đình, chẳng phải tại tôi. Đó là do bọn tên Giáp
tên Ất nó sinh sự sự sinh. Bắt chúng nó làm lại đình khác để đền!
Nửa đêm hôm ấy, trời
bỗng nổi phong ba, sấm chớp đùng đùng, gió rít từng cơn rất dữ. Giữa lúc ấy người
ta nghe xen vào những tiếng như tiếng kèn trống cùng những tiếng truyền lệnh của
ông Dọng: - "Nâng lên!... Hạ xuống... Xích về bên trái...". Đình làng
Vạn-phước thốt nhiên bay bổng lên không trung cùng với cả những hòn đá tảng kê
chân cột; đình vượt qua các lũy tre rồi tiến đến bờ sông lối sang làng Đa-hòa.
Ông Dọng đã đợi ở đấy
từ lâu. Ông ngồi lên chiếc nón tu lờ bơi sang sông theo đình để điều
khiển. Đình vượt qua sông là là mặt nước. Sau đó đình bay bổng về
Đa-hòa rồi hạ xuống
một cách êm thấm trên cái nền mới đắp. Lại có những tiếng hô của ông Dọng và tiếng
ồn ào dội lên ở đây, được một chốc thì vắng lặng như tờ. Soát lại mọi chỗ, ông
Dọng chỉ thấy có một viên đá tảng bị rơi lúc vượt sông, còn mọi thứ đều không hề
suy suyển. Cuộc chuyển đình hoàn thành một cách chu đáo.
Sáng hôm sau, dân
làng Vạn-phước nhìn đến đình thì thấy chỉ còn một cái nền trơ trọi. Họ đến nhà
của mấy tên phú thương đòi đình.
Mấy tên này lo lắng,
bèn họp bọn hào lý bắt đệ đơn lên quan tố cáo ông Dọng ăn trộm đình.
Quan huyện đòi ông Dọng lên hỏi:
- Sao mày dùng
phép ma thuật quỷ ăn trộm đình của người? Ông Dọng làm bộ ngơ ngác. Quan lại nói:
- Làng Vạn-phước
tố cáo mày ăn trộm đình về cho làng Đa-hòa. Có thế nào cứ thực tường
khai để khỏi phải tra khảo.
- Bẩm quan, ông
Dọng nói, chuyện bên nguyên đưa ra "thậm ư vô lý". Vậy xin
phép hỏi, đình mất từ bao lâu?
- Mới hôm kia
chứ đâu? Ông Dọng cười ha hả:
- Quan lớn nhân
danh "dân chi phụ mẫu" phụ họa với bọn không đặt làm có, mà cũng nghe được.
Quan huyện đập bàn
quát lên:
- Lính đâu, hãy
đóng gông tên này lại cho ta. Ông Dọng thong thả đáp:
- Xin quan lớn
bớt cơn thịnh nộ cho kẻ hạ dân hỏi bên nguyên: Nền đình làng Vạn-phước có dấu
tích gì để biết đình mất đã bao lâu?
Bọn lý hào Vạn-phước
nói:
- Cải đã lên
lá. Ông Dọng cười:
- Bẩm quan, một
bên mất đình chỉ nói cải vừa trổ lá, còn đình làng tôi thì bìm bìm đã
mọc lên tận nóc. Xin mời quan về khám hư thực.
Quan về khám đình
làng Đa-hòa thì quả thấy xung quanh đình, bờ giậu đã mọc xanh kín, ở sân đình
cây cối um tùm: đặc biệt là dây bìm bìm đã leo lên tới nóc. Thấy vậy, quan đành
xử cho ông thắng cuộc.
Bọn hào lý làng Vạn-phước
chịu thua kiện, cắm cổ ra về. Sau đó, do dân làng buộc tội, mấy tên phú thương
đã đánh ông Dọng ngày xưa tức là bọn tên Giáp tên Ất phải ngửa cổ đền cho làng
Vạn-phước một cái đình khác.
Người ta nói đình
làng Đa-hòa cho đến nay vẫn còn, một cột cái của nó vẫn để lơ lửng vì thiếu
mất một hòn đá tảng lúc vượt sông.
Hết.
KHẢO DỊ
Ở một số làng Bắc-bộ
còn có nhiều truyện nói về trộm đình hoặc mượn đình bằng phép thuật. Chúng tôi
kể ra dưới dây hai truyện:
1. Mượn đình
Làng Yên-mỹ thuộc
huyện Thanh-trì có một thầy phù thủy cao tay. Một hôm nghe dân làng
phàn nàn sắp mở đám hội mùa xuân mà tiếc rằng làng nghèo không có
đình để vào đám cho trọng thể, ông bảo họ: - "Tôi sẽ vì làng đi mượn một
cái đình, rước xách xong lại trả cho người ta". Dân làng hỏi: - "Mượn
ở đâu?". "Làng Trung-quan ở bên kia sông có ngôi đình đẹp, mượn cũng
tiện". - "Phí tổn thế nào?" - "Không tốn kém gì mấy. Chỉ
xin chọn đất đắp cho một cái nền đình, và khi nào chuyển vận thì mỗi nhà nấu
cho một nồi cháo đưa ra bày ở nền để khao âm binh". Mọi người
ưng thuận. Khi nền nắp xong, ông dặn: - "Hễ đêm nay nghe tiếng chó cắn xin
mọi người ai nấy cứ ngủ kỹ, chớ có tò mò ra nhìn ngó gì mà hỏng việc". Nửa
đêm hôm ấy, người làng nghe tiếng chó cắn râm ran khắp nơi, qua đó nghe như có
hàng ngàn quân đang tập hợp ở sân đình. Sau đó lại tản đi đâu mất cả. Được một
chốc lại nghe rào rào như gió bão, rồi tiếp đến thấy im lặng như tờ.
Sáng dậy, dân làng
ra xem quả thấy có một ngôi đình đồ sộ đặt trên nền cùng với cả hoành phi, câu
đối và đá tảng. Dân làng Trung-quan thấy mất đình chia nhau đi tìm. Cuối cùng họ
biết đình của mình đã sang bên làng Yên-mỹ, nhưng không biết lấy cớ gì để đòi.
Dân Yên-mỹ mở hội bảy đêm ngày, mời các làng lân cận, trong đó có Trung-quan về
dự rất vui vẻ, nhưng không một ai hé răng nói đến ngôi đình mới của mình. Sau
khi đám hội kết thúc, thầy phù thủy lại dùng phép trả đình lại cho làng
Trung-quan. Người của làng Yên-mỹ mang một con lợn và mấy cỗ xôi sang
tạ lỗi: - "Làng chúng tôi không có đình, nếu nói thật là mượn đình, thì
quý thôn chắc cũng chả cho mượn. Vậy đành phải mượn trộm trong mươi hôm. Nay
xin trả lại đầy đủ chỉ giữ lại mười hòn đá tảng để làm kỷ vật, hết bao nhiêu tiền
chúng tôi xin bồi thường".
Về sau, khi làng
Yên-mỹ có tiền dựng đình, vì đình quy mô nhỏ nên họ phải xén bớt những
hòn đá tảng giữ lại nói trên cho vừa cỡ của cột.
2. Giấu đình dưới giếng
Làng Mễ-trì, huyện
Hoài-đức, một làng hai thôn chung nhau một cái đình. Một hôm dân hai thôn cãi
nhau về việc cúng thần. Sáng ra, họ thấy đình đã mất, chỉ còn trơ lại cái nền.
Thần ngự đồng lên bảo cho biết, vì hai thôn ganh tỵ nhau, nên đêm qua thần bốc
đình bỏ xuống giấu ở một giếng gần đấy. Nay việc đã định rồi không cho đưa về nữa.
Người ta ra giếng nhìn quả thấy lờ mờ có nóc đình ở dưới nước. Không
thấy một ai bàn chuyện di chuyển. Nhưng sau đó mỗi lần cầu việc gì không được
(như trời hạn cầu mưa chẳng hạn) dân làng lại ra sức tát giếng làm như cách đưa
đình lên để dọa thần. Thần sợ nên hễ nước cạn hơi lộ cột ra, thần phải lật đật
làm mưa cho họ thôi tát. Có lần tát lộ cả bốn cột rồi mà vẫn chưa thấy mưa, một
người họ Ngô lội xuống giếng vào cung đánh chuông vang rền, nhưng hắn bị thần
phạt. Vì thế từ đấy mỗi khi tát để cầu đảo, làng không cho những người họ Ngô
xuống giếng.
Về sau hai thôn phải
làm đình riêng, chỗ cũ gọi là bãi nền đình.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment