Ngày xưa có một người
làm nghề bưng trống tên là Tam. Mỗi lần làm xong một số hàng có đủ trống con trống
lớn, ông thường mang đi các vùng lân cận để bán. Bán hết, ông lại trở về làm
chuyến khác. Một hôm ông gánh hàng đi bán ở một vùng khá xa. Vừa trèo
lên một ngọn đèo, ông bỗng thấy một người ngồi ẩn dưới bóng một cây đa. Thấy mệt
và nóng bức nên ông cũng dừng lại ở đây nghỉ chân. Trong khi trò chuyện, hai
người hỏi tên tuổi và nghề nghiệp của nhau. Người hàng trống biết khách thên là
Tứ làm nghề buôn vặt nhưng hết vốn, đang định tìm chỗ làm thuê để nuôi miệng.
Tam thương cảnh ngộ
của Tứ, bèn giở gói cơm ra mời ngồi lại cùng ăn, đoạn bảo Tứ:
- Bây giờ anh
hãy gánh giúp cho tôi một đoạn đường từ đây tới khi anh rẽ lối khác.
Tôi sẽ trả anh một số tiền.
Hai người bắt đầu xuống
núi. Đi một thôi đường, họ thấy khát nước, và sau đó, cả hai đều dừng lại bên một
cái giếng thơi ở vệ đường. Nhìn thấy giếng sâu, thành đứng lại đầy rêu, không
biết làm sao mà múc, Tứ bảo Tam:
- Bây giờ ta
làm cách này thì uống được. Tôi buộc sợi dây lưng vào người, ông nắm chặt lấy một
đầu dây, để tôi bám vào thành giếng trèo xuống. Uống xong ông kéo lên cho. Sau
đó đến lượt ông lại làm như tôi để xuống.
Họ làm như lời đã
bàn. Nhưng đến lượt Tam xuống thì Tứ để mặc Tam dưới đáy giếng rồi quảy gánh trống
đi luôn một mạch. Tam gọi mãi không thấy Tứ, biết là bị lừa, bèn đứng dưới giếng
kêu cứu ầm ĩ. Không may cho Tam là đoạn đường ấy rất vắng nên kêu khản cả cổ mà
chả có một tiếng trả lời. Mãi đến chiều tối mới gặp được mấy người khách bộ
hành đi qua, nhờ đó được họ kéo lên khỏi giếng.
Tam vừa xót của vừa
giận phường bội nghĩa, đi thất thểu mãi đến chiều rồi lạc vào một ngôi chùa.
Ông gọi người thủ hộ, nài nỉ xin cho mình được vào nghỉ nhờ một đêm. Thủ hộ bảo:
- Ở đây có bốn
con quỷ "quàn tài" dữ lắm. Thường đến canh ba thì chúng hiện ra. Người
quen thì chớ, còn người lạ thì chúng nó bóp cổ. Thôi, ông đi chỗ khác mà trú, đừng
lân la nơi đây mà thác uổng mạng!
Tam bấy giờ đầu gối
đã mỏi, mắt đã ríu, nên đáp liều:
- Bạch thầy, thầy
cứ làm ơn cho tôi ẩn nấp một chỗ nào đó kín đáo, để tôi ngủ nhờ một tối, kẻo
tôi bây giờ không thể lê bước đi đâu được nữa.
Thủ hộ chỉ vào một cửa
hang và bảo:
- Đó là cái
hang mà bốn con quỷ hay ra vào, bên cạnh cửa hang có một chỗ kín có
thể nấp được, ông vào đó mà ngủ may ra thì thoát. Ngoài đó ra chả có nơi nào
kín kết!
Tam đành chui liều
vào chỗ thủ hộ chỉ, rồi đặt mình xuống làm một giấc. Đến canh ba, tỉnh dậy, thấy
bốn con quỷ vừa đi đâu mới về. Chúng nó đứng lại ở cửa hang trò chuyện với
nhau. Con quỷ thứ nhất nói:
- Phía sau ngôi
chùa này, cách mười bước về phía bên trái có chôn sáu chĩnh bạc.
Con quỷ thứ hai nói:
- Phía sau ngôi
chùa này, cách mười bước về bên phải cũng có chôn sáu chĩnh vàng.
Con quỷ thứ ba nói:
- Còn tôi, tôi
có biết một chỗ giấu một viên ngọc quý, ai mà bắt được thì có thể làm chúng ta
chết ngay lập tức!
Con quỷ thứ tư nói:
- Ngọc ở đâu?
- Ở bên cạnh cửa
hang này.
Nghe nói thế, Tam nhớ
lại lúc đi ngủ quả có thấy một viên gì tròn tròn và sáng ở ngay cạnh chỗ nằm; lập
tức chàng với tay chộp lấy ngọc. Giữa lúc mấy con quỷ chưa kịp bỏ đi,
Tam đã vung tay ném hòn ngọc vào giữa chúng, làm cho cả bốn đều chết thẳng cẳng.
Sáng dậy, Tam bước
ra khỏi chỗ nằm đi tìm thủ hộ để cảm ơn. Sau đó ông trở về gọi người nhà tìm đến
chùa, đào lấy mấy chĩnh vàng và bạc. Từ đó, Tam trở nên giàu có sung sướng.
Còn Tứ sau khi cướp
được gánh trống của Tam, bèn tìm đi một nơi xa để bán. Chiều tối hắn ghé lại
một cái quán xin nghỉ trọ. Chủ quán bảo:
- Ở đây khuya lại
có quỷ hiện ra làm hai khách lạ. Vậy ông hãy gắng đi thật xa mới khỏi làm mồi
cho chúng.
Nghe nói Tứ hoảng sợ,
nhưng bấy giờ tìm đến làng xóm thì đã quá muộn, hắn đành phải xin chủ quán chỉ
cho một chỗ kín đáo để nấp tránh lũ quỷ. Chủ quán chỉ cho Tứ một cái hang kín.
Tứ đặt gánh trống ở ngoài cửa hang, chui vào nằm ngủ.
Khuya lại, quả có một
lũ quỷ kéo đến cửa hang. Chúng vô tình giẫm lên mặt trống, trống phát tiếng
"thùng thùng". Giật mình kinh sợ, mỗi con quỷ chạy trốn vào một
xó. Một con quỷ chui nhào vào hang Tứ nằm giữa lúc hắn đang ngủ mê. Thế là tiện
tay quỷ bóp cổ, hắn chết.
Hết.
KHẢO DỊ
Truyện của ta giống
với khá nhiều truyện của các dân tộc Đông và Tây: Trước hết là truyện của
Băng-la-dex (Banglades):
Một hoàng tử và một
người con viên cảnh sát (kôt-oal), một thiện, một ác, cùng kết bạn với nhau để
đi ra nước ngoài. Một hôm qua một cái giếng, nhân khát khô cổ, hoàng tử bảo người
bạn dòng mình xuống để uống. Người kia bỏ hoàng tử xuống giếng rồi đi thẳng.
Đêm lại, hoàng tử nghe dưới giếng có hai vị thần (bơ-hut) nói chuyện với nhau.
Một vị nói mình bắt được một nàng công chúa và phải làm phép như thế, công chúa
mới được giải cứu. Vị thần kia cho biết dưới một gốc cây gần giếng có năm lọ
vàng mà mình là kẻ canh gác. Phải làm phép như thế mới có thể đưa vàng lên khỏi
mặt đất.
Sáng dậy hoàng tử được
một người qua đường giúp đỡ đưa lên khỏi giếng. Người qua đường này lại chính
là người được vua sai đi rao khắp thiên hạ rằng ai cứu được công chúa khỏi tay
hung thần sẽ chia cho nửa nước. Hoàng tử lập tức theo đúng cách đã nghe lỏm được,
cứu thoát cho công chúa rồi đến giếng chiếm lấy năm lọ vàng. Biết có người nghe
lỏm, hai vị thần tức giận từ đấy hết sức đề phòng.
Đứa con viên quan cảnh
sát một hôm nghe câu chuyện hoàng tử gặp may, nổi lòng tham bèn tìm đến giếng
trèo xuống. Nhưng hai vị thần đã rình sẵn tóm lấy y giết chết.
Gần như là một với
truyện trên là truyện trong Nghìn lẻ một đêm:
A-bu Ni-ut (Thiện)
nhân khát nước, nhờ một người bạn đường là A-bu Ni-út- tin (Ác) buộc dây dòng
mình xuống một cái giếng. Nhưng đang giải khát thì người bạn đã cắt dây, bỏ anh
lại. Đến khuya, A-bu Ni-ut nghe dưới đáy giếng có hai hung thần nói chuyện với
nhau về cách chữa bệnh cho một công chúa và cách tìm kho vàng. Sáng mai, nhờ một
người bộ hành đi qua, anh được kéo lên khỏi giếng. Anh bèn đến cung vua xin chữa
bệnh cho công chúa và sau đó, lấy được nàng làm vợ, lại đào lấy được kho vàng.
Ít lâu sau gặp lại người bạn đường cũ, anh kể hết cho hắn nghe. A-bu
Ni-út-tin cũng muốn được may mắn nên tự mình trèo xuống giếng nhưng hai hung thần lúc này đã gặp lại nhau, tin cho nhau
biết việc bí mật của họ bị bại lộ. Nổi giận, họ lấy đá lấp giếng lại. A-bu Ni-
út-tin bị chết dưới giếng.
Truyện của người
Xa-ri-kô-li (ở Trung Á, phía Tây cao nguyên Pa-mia (Pamir)) không nói đến giếng
mà nói đến cái hang:
Có hai anh bạn Thiện
và Ác cùng đi với nhau. Mấy ngày đầu họ ăn lương thực của Thiện. Ăn hết rồi, Ác
đòi Thiện phải chọc một con mắt thì mới cho anh ăn vào lương thực của mình. Bữa
thứ hai hắn bắt anh chọc nốt con mắt kia. Cuối cùng, hắn bỏ người bạn lại dọc
đường. Thiện ẩn vào một cái hang. Đêm lại, anh nghe có ba con vật: chó sói, gấu
và chồn nói chuyện với nhau về một nàng công chúa bị mù và cách chữa mù bằng một
thứ cây và một thứ nước giếng ở gần hang. Thiện đi tìm thuốc chữa lành mắt mình
lại đến kinh đô chữa lành mắt cho công chúa, được vua kén làm
phò mã. Khi gặp Ác, Thiện cũng kể chuyện mình cho Ác nghe. Ác bèn
cũng mò đến cái hang kia, nhưng ban đêm, các con vật nghe tiếng động của Ác bèn
xúm lại vồ chết.
Một loạt truyện ở Á
và Âu tuy không nói đến giếng hay hang nhưng đều có tình tiết tương tự. Dưới
đây là một vài truyện tiêu biểu:
Truyện của người Kiếc-ghi-dơ
(Kirghizs) giống truyện vừa kể ở chỗ cũng có hai nhân vật Thiện và Ác (nhưng
khi ăn đến chỗ lương thực của Ác, thì ở đây, Ác đòi phải cắt hai tai và chọc
hai mắt Thiện). Khi bị bỏ ở rừng, Thiện nghe câu chuyện của ba con vật: hổ, chồn
và chó sói. Chồn nói đến một thứ cây chữa lành tai và lành mắt. Hổ nói đến một
con chó nọ, xương nó có thể làm cho người chết sống lại. Còn con chó sói mách một
chỗ có một khối vàng to bằng đầu người. Sáng dậy, Thiện đi tìm cây quý, tự chữa
lành tai và mắt, rồi đi nhặt khối vàng, đoạn lấy một số vàng mua lại con chó
quý. Tới một nước nọ, Thiện lấy xương chó chữa cho vua sống lại. Để tạ ơn, vua
gả công chúa cho anh. Khi Ác nghe kể câu chuyện, liền giục Thiện cắt tai, chọc
mắt cho mình và đưa mình đến rừng để mong cũng được phú quý, nhưng hắn đã bị ba
con vật kia vồ chết.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment