Vào đời nhà Lê, tại
làng Công-luận thuộc trấn Kinh-bắc có một người đàn bà góa nghèo khổ không nơi
nương tựa. Từ lâu bà mở một ngôi hàng nước ở ven đê để sống qua ngày.
Một hôm, có một ông
khách vào hàng bà uống nước. Lúc ra đi, ông khách bỏ quên ở hàng túi đựng đầy bạc.
Bà bèn đem túi bạc cất đi. Mấy hôm sau, thấy ông khách cũ trở lại, bộ
dạng hớt hơ hớt hải, bà đã biết ý liền thủng thỉnh mang túi bạc ra trả. Ông
khách đếm lại thấy số bạc của mình vẫn còn nguyên vẹn thì cảm ơn không ngớt, rồi
trích hẳn một nửa đem biếu bà hàng. Nhưng người đàn bà lắc đầu:
- Không phải mồ
hôi nước mắt do tôi làm ra, tôi đâu dám nhận. Ông khách cố nài mãi, nhưng bà nhất
định không lấy, và nói thêm:
- Nếu tôi có
lòng tham của, thì tôi đã chẳng phải ngồi nhặt từng đồng kẽm thế này.
Ông khách chưa từng
thấy người nào trọng nghĩa khinh tài như vậy nên ân cần bảo:
- Tôi là thầy địa
lý chính tông ở Bắc quốc sang đây. Bà có tấm lòng vàng như vậy tất
con cháu sẽ được hưởng phúc dày của bà. Vậy phần mộ tổ tiên
bà ở đâu hãy chỉ cho tôi, tôi sẽ tìm cho một ngôi đất quý hiển.
- Tôi bây giờ
đã xế bóng - bà hàng trả lời - Chồng con anh em chẳng còn một ai, dù được đất tốt
cũng chả làm được gì. Tôi cứ sống với nghề hàng nước như thế là đủ rồi.
Nhưng ông khách vẫn
cố tìm lời lẽ để cho người đàn bà xiêu lòng. Ông nói là mình mới chọn được một
kiểu đất phát trạng nguyên tể tướng lại ở sát gần đây, thật là hiếm có. Nếu
táng được mồ tổ vào đấy thì sau này đến tuổi già sẽ có nơi nương tựa không gì tốt
bằng. Ông còn nói: bà là người phúc đức xứng đáng được hưởng phú quý vinh hoa,
chớ nên từ chối.
Thấy ông khách bàn
vào mãi, bà hàng sau đó ưng thuận, bèn đưa ông ta ra đồng chỉ ngôi mộ của
bố mình để cho ông lo việc cải táng. Công việc xong, trước khi từ giã, thầy địa
lý không quên dặn bà hãy cố gắng giúp đỡ người nguy kẻ khó thì rồi phúc đức sẽ
đến sớm hơn.
Sau mấy tháng, một
hôm vào khoảng chập tối, trời sắp nổi mưa to gió lớn, bà hàng nước bỗng nghe tiếng
gọi cửa cầu cứu. Bà mở cửa ra thì thấy một người đàn ông đóng khố,
toàn thân ướt sũng đang rên hừ hừ. Người ấy nói mình ở làng bên cạnh, nhân đi đánh giậm xa bị cảm lạnh, lại vì mưa gió không thể về nhà được,
nên xin vào nghỉ nhờ tại đây. Thấy người ấy run lẩy bẩy, nước da tái nhợt, tay
chân lạnh toát, người đàn bà lấy làm thương hại, bèn dìu vào nhà đốt lửa cho sưởi
rồi sau đó lại thổi cơm cho ăn. Bấy giờ vào khoảng tháng Mười trời rất lạnh,
nhà bà ta chỉ có một chiếc chõng và một chiếc chiếu thì đã nhường cho khách nằm.
Khuya lại rét quá, bà cũng phải ghé lưng vào nằm bên cạnh. Người đánh giậm, sau
một giấc ngủ say đã thấy bớt mệt. Cả hai người trong gian nhà vắng, cuối cùng
không ngăn được lửa dục. Nhưng không may cho người đàn ông, vì bị hàn thấp ngộ
phòng, nên vừa ân ái xong đã lăn ra bất tỉnh.
Thấy người đánh giậm
chết, người đàn bà sợ liên lụy đến mình bèn nhân đêm tối, đem vùi thây người bạn
một đêm ấy xuống chân đê.
Từ đấy bà hàng nước
có mang, chẳng bao lâu đủ ngày đủ tháng sinh được một đứa con trai. Mặc cho những
lời nhiếc móc, bà hết lòng nuôi nấng, chăm sóc con, không rời ra một bước.
Nhưng chẳng may khi thằng bé lên bốn tuổi, một hôm đang lững thững chơi một
mình ở bờ sông bỗng có một người lái buôn thấy mặt mũi nó khôi ngô, bèn dỗ dành
đưa xuống thuyền rồi dong buồm đi mất. Chiều lại, bà hàng nước không thấy con về,
bèn đâm bổ đi tìm khắp nơi. Mãi không thấy con đâu, bà đoán là nó đã ngã xuống
sông, hai là mẹ mìn dỗ mất, đành gạt nước mắt mà trở về nhà.
Lại nói chuyện người
lái buôn vốn họ Giáp người làng Dĩnh-kế. Vì không có con trai nên từ khi bắt trộm
được đứa bé, hắn mừng lắm liền đặt tên là Hải, bắt nó gọi mình bằng bố, và sau
đó, nuôi nấng chăm chút như con đẻ. Năm lên sáu tuổi, Hải được cắp sách đi học.
Nhờ thông minh linh lợi, Hải học càng tấn tới. Năm mười chín tuổi, Hải đã thi đỗ
á nguyên nhưng thi hội hai lần bị hỏng, phải tìm thầy học thêm. Cuối cùng, được
bố cho tiền lưng gạo bị đến kinh đô theo học ở trường một cụ nghè.
Một hôm đi học qua bến
Bồ-đề, Hải thấy một người đánh cá bắt được một con ba ba nhỏ xinh xắn
sắp đem làm thịt. Tự nhiên động lòng thương hại, Hải liền ngăn lại, hỏi mua,
người đánh cá đòi những bốn quan tiền. Không kỳ kèo, Hải vội về nhà lấy
tiền đưa ngay. Mua được về, Hải bỏ ba ba vào ngăn kéo. Hàng ngày cứ thường lệ
buổi sáng chàng để bụng đói đi học, trưa về mới thổi cơm. Cứ đến bữa cơm lại mở
ngăn kéo đem ba ba ra cho cùng ăn.
Được mấy ngày, một
hôm Hải đi học về, bỗng thấy có cơm canh bày sẵn ở trên bàn mà không biết ai dọn.
Chàng hơi ngạc nhiên, nhưng cứ ngồi vào bàn ăn ngon lành. Hôm sau và hôm sau nữa
cũng vẫn như vậy. Hải từ ngạc nhiên đến tò mò, sáng sớm bèn giả cách đi học, nửa
đường lộn trở về thì thấy con ba ba từ trong ngăn kéo bò ra, hóa thành một người con gái đẹp. Từ chỗ nấp, Hải chạy vội
vào giấu xác ba ba vào hòm khóa lại. Cô gái không có chỗ biến hình nữa, thẹn
thò bảo chàng:
- Thiếp là con
gái vua Thủy, hôm nọ đi chơi chẳng may bị chúng bắt được, may có chàng cứu cho
mới thoát nạn. Nên thiếp nấn ná ở đây để trả ơn chàng.
Từ đấy hai người ăn ở
như vợ chồng. Một hôm cô gái bảo Hải:
- Thiếp vắng
nhà đã lâu ngày, chắc bố mẹ đang sốt ruột trông đợi. Thiếp muốn về thăm nhà,
nhân thể mời chàng xuống chơi ít lâu cho biết.
- Ta là người
trần làm sao mà xuống được, - Hải đáp.
- Không hề gì.
Chàng cứ trả lại lốt ba ba cho thiếp và đi theo thiếp. Nhưng Hải còn
băn khoăn:
- Ta đang luyện
văn bài để đợi khoa thi. Đi như vậy không tiện.
- Nhà thiếp có
Trạng nguyên họ Lương, chàng xuống đó có thể hỏi nghĩa lý sách vở rất tiện.
Hải nhận lời ngay.
Hai người dắt nhau ra bờ sông. Cô gái khoác lốt ba ba rẽ nước cho Hải xuống.
Vua Thủy trông thấy con gái về thì vui mừng khôn xiết. Vua tiếp đãi người ân
nhân của con rất hậu và cố lưu lại tiệc tùng khoản đãi không ngớt. Mấy ngày
sau, Hải gặp được Trạng nguyên họ Lương, trong khi ông đang ngồi giảng
kinh Dịch. Được nghe giảng, Hải rất mừng vì gặp người thầy giỏi. Vua
Thủy sai dọn một ngôi lầu tĩnh mịch cho chàng ôn luyện sử sách.
Hải vui chơi dưới Thủy
phủ suốt mấy năm liền quên cả về. Một hôm, vua Thủy giục chàng về gấp để giành
lấy trạng nguyên. Vua còn tống tiễn bạc vàng rất hậu. Hải rất bịn rịn khi phải
chia tay với cô gái vua Thủy.
Vừa lên khỏi mặt nước
thì Hải đã nghe tin nhà vua xuống lệnh chỉ cho mở khoa thi.
Không kịp trở lại quê nhà báo tin, chàng vội tìm đến nhà trọ cũ ở
kinh đô để chuẩn bị lều chiếu vào trường. Sau đó Hải đậu tiến sĩ rồi vào thi
đình đậu luôn trạng nguyên. Tính từ lúc xuống Thủy phủ cho đến ngày vinh quy vừa
đúng mười một năm. Người lái buôn họ Giáp từ ngày Hải xuống Thủy phủ vẫn đinh
ninh là con nuôi đã mất tích, ngày đêm than khóc không nguôi; chợt một hôm nghe
tin trường thi yết bảng có tên con trai mình đứng đầu, lòng mừng không lấy chi
cân, bèn hối hả sai người nhà sắm sửa nếp gạo, lợn bò và
trang hoàng nhà cửa để con về vinh quy bái tổ.
Bấy giờ dân đinh
hàng huyện bị buộc phải mang trống chiêng cờ quạt, cơm gói muối đùm đi đón quan
Trạng, ai nấy đều tỏ vẻ không bằng lòng. Trong số đó có người dân
làng Dĩnh-kế vốn biết Trạng không phải quê gốc ở làng mình huyện mình, bèn nói
vụng với nhau: - "Cái anh nghè này không biết quê cha đất tổ ở
đâu tự nhiên về làm con nhà họ Giáp, bắt chúng ta phục dịch ngày đêm đến là khổ sở!"
Trạng Hải bấy giờ nằm
trong cáng, nghe lỏm được câu phàn nàn của dân phu bèn sinh mối hồ nghi. Ngẫm lại,
chàng thấy giữa mình với bố mẹ khuôn mặt cũng như vóc người không có
gì tương tự. Nhưng Hải vẫn không truy vấn người lái buôn vì thấy lòng không nỡ.
Nhưng cũng từ đấy chàng bắt đầu để bụng dò la. Mãi sau mới có người mách cho biết
Trạng là con một bà hàng nước nào đó chứ không phải là con đẻ của ông lái buôn
họ Giáp. Chẳng qua vì hiếm hoi nên ông ta tìm cách bắt trộm về làm con mình. Điều
hồ nghi trong lòng chàng vì thế càng trở nên day dứt.
Một hôm, Trạng Hải
cùng người hầu tình cờ đến làng Công-luận, thấy ở hàng ven đê có một bà lão
ngoài 70. Trạng sai người đến hỏi thăm bà lão, thì bà cho biết trước kia mình
có sinh một đứa con, năm lên bốn tuổi ra bờ sông chơi bị sẩy chân rơi xuống
sông, bây giờ sống một thân một mình không nơi nương tựa. Hỏi có tìm được xác
không thì bà lão cho biết vì không có tiền thuê người tìm tòi, và không nghe ai
nói tìm thấy xác, nên coi là mất tích.
Tuy chưa biết có
đích thực hay không, Trạng cũng sai người bảo bà lão:
- Quan tôi
trông thấy cố già cả, chồng con không có, muốn đem về làm phúc, chẳng hay cố có
bằng lòng không?
- Nếu quan
lớn có lòng thương đến kẻ già thì còn nói gì nữa - bà lão đáp.
Từ đấy bà lão đi
theo Hải đến chỗ làm quan, cái ăn cái mặc được chu cấp tử tế. Một hôm bà lão
trông thấy Trạng thì bỗng òa lên khóc. Mọi người xúm lại hỏi bà, bà lão nói:
- Trước khi đẻ
được con trai có cái nốt ruồi ở chân bên phải. Bây giờ tôi trông thấy ở chân phải
quan có cái nốt ruồi, tôi nhớ đến con tôi, xin các ông tha lỗi cho.
Bấy giờ Trạng mới
tin bà lão đích thì là mẹ mình. Hai mẹ con nhận ra nhau và ôm nhau mà khóc. Còn
người lái buôn tự biết mình có lỗi đến thú tội với Trạng, nhưng Trạng xét công
lao của bố nuôi đã cho mình học nhờ đó mới có ngày hôm nay, nên vẫn tỏ ra một
lòng hiếu kính, phụng dưỡng bố mẹ nuôi và mẹ đẻ như nhau.
Về sau có lần Trạng
được vua sai làm chánh chủ khảo đi chấm thi ở trường Sơn-nam. Trạng ra đầu bài
hiểm hóc, học trò ứng thi không có hy vọng được đỗ, bèn bí mật bàn nhau ước định
nổi dậy phá trường thi. Nghe tin, Trạng lấy làm lo sợ phải ra đầu bài khác để
cho họ thi lại. Sau đó, Trạng cho người dò la, cuối cùng cũng bắt được người
học trò chủ xướng. Tuy mới chỉ là âm mưu, nhưng Trạng cũng khép y vào tội chết.
Bố mẹ người học trò đến kêu khóc với Trạng nói nhà mình "độc đinh",
chỉ có nó là con nối dõi, vậy xin nộp một ngàn quan tiền để chuộc mạng. Nhưng
Trạng đang cơn giận dữ, nhất định ra lệnh trảm quyết không tha.
Được ít lâu, con
trai của Trạng là Giáp Phong không có bệnh tật gì, tự nhiên lăn ra chết. Trạng
thương tiếc quá bèn sai người mời phù thủy đến đánh đồng thiếp cho mình xuống
âm phủ đi tìm con, nhưng chẳng có thầy nào làm cho Trạng vừa lòng.
Một hôm có một đạo
nhân mặc áo rách đi giày rách đến cửa xin gặp. Trạng vốn ghét đồng cốt
quàng xiên nên không chịu tiếp, nhưng đạo nhân đòi gặp mặt Trạng mới chịu đi.
Khi hai người gặp nhau, đạo nhân trừng mắt, hỏi:
- Có muốn gặp
con không?
Trạng tự nhiên mất vẻ
trịnh thượng, đáp:
- Có
- Vậy thì
hãy ngồi im nhắm mắt lại, ta sẽ đưa tới nơi.
Nói đoạn, đạo nhân
liền thư phù rồi đọc một câu thần chú. Giáp Hải bỗng thấy tối sầm cả lại, rồi
thấy người ấy dẫn mình đi. Trạng đi mãi, đi mãi, tuy thấy chồn chân nhưng vẫn
không dám dừng lại. Cho đến lúc tới một nơi nhà ngói tường dắc, bên trong lầu
son gác tía, người hầu kẻ hạ tấp nập, thì thấy đạo nhân đi chậm lại, rồi dẫn
mình vào một dãy hành lang. Đến đây, đã thấy Giáp Phong đang đánh cờ với một
ông quan trong một ngồi lầu bát giác xa tận phía trong. Thấy vậy, Trạng một hai
xin phép vào gặp con ngay, nhưng mấy lần lính vào bẩm, Giáp
Phong vẫn cứ làm ngơ không trả lời. Mãi sau ván cờ tàn, ông quan kia
hỏi Giáp Phong:
- Anh không
quen thuộc gì với người ấy ư?
- Có - Giáp
Phong đáp - trước kia tôi có trọ nhà ông ta hai chục năm, nhưng vì ông ta giết
oan mất một người học trò, nên tôi không ở nữa.
Khi tỉnh dậy, Trạng
biết đó là sự báo oán, bèn sai gọi bố mẹ người học trò bị chém, cho họ tiền để
về sửa lễ làm chay cho con.
Hết.
KHẢO DỊ
Truyện của người
Choang: Anh Ba và quan thổ ty:
Một cụ già trước khi
tắt thở bảo ba con mỗi người kiếm nghề làm ăn. Vì lười, người anh cả tiêu hết
tiền, chết đói. Người thứ hai học nghề trồng rau, người thứ ba nghề câu cá. Một
hôm người anh em câu được một con cá đáp, về mổ bụng thấy một con cá chép vàng
đang còn thoi thóp. Anh thả vào chậu, cá chép sống lại, nhưng một hôm anh đi vắng
cá biến mất. Buồn rầu, anh đi chơi ven sông, bỗng gặp một chàng trai (không phải
là cô gái như truyện của ta) tự xưng là cá vàng vốn là con Long vương, mời anh
xuống chơi để đền ơn cứu mạng. Long vương yêu quý tặng anh nhiều vàng bạc,
nhưng nghe lời dặn của cá vàng, anh từ chối tất cả, khi ra về chỉ xin con gà trắng.
Từ đấy ngày nào đi câu về anh cũng thấy cơm canh sẵn sàng. Sau đó một hôm anh
giả vờ đi câu nửa đường lộn về, thì thấy một cô gái đẹp. Cô gái đang lúng túng
toan chui vào lồng gà nhưng không kịp. Đó là con gái Long vương. Hai người trở
thành vợ chồng.
Thổ ty thấy vợ anh đẹp
muốn bắt, liền buộc anh phải nộp một trăm hai mươi con cá chép, mỗi con mười bảy
lạng, con nào cũng đỏ như nhau. Vợ anh lấy giấy đỏ cắt đủ một trăm hai mươi miếng
rồi hóa thành cá nộp cho thổ ty. Lần thứ hai, thổ ty lại bắt dệt một tấm vải màu xanh
da trời dài bằng con đường đi. Vợ anh xuống sông đưa lên một quả bầu thần, ước
một cái có ngay tấm vải. Lần thứ ba, hắn lại bắt nộp một đàn dê đỏ, anh đều có
đủ. Lại bắt nộp một trăm hai mươi con quái vật. Anh cũng nộp ngay. Nhưng quái vật
lại đòi thổ ty cho chúng ăn dầu, ăn xong nửa đêm chúng la hét om sòm. Thổ ty
châm đèn không ngờ lửa bén vào quái vật. Nóng quá chúng chạy khắp nơi. Cơ nghiệp
của thổ ty cháy hết.
Truyện của người
Mèo Tiếng khèn Tồng Páo:
Tồng Páo mồ côi
đi ở chăn bò cho bà cô. Sợ anh quyến rũ con gái, bà đuổi anh ra khỏi nhà. Giúp
đỡ cho người, anh lên núi học được nghề thổi khèn với một cụ già. Thành nghề,
anh được cụ cho chiếc khèn. Cô gái con vua Thủy mê tiếng khèn của anh, mời anh
xuống Long cung giúp vui trong lễ của vua Thủy; nhân đó anh dạy cho cô gái thổi
khèn. Khi vua trả công, anh chỉ xin cái cốc bé như lời mớm của cô gái. Nhưng cốc
bé lại chính là con gái con vua Thủy. Hai người trở thành vợ chồng có lâu đài,
súc vật, của cải, v.v... Tiếng khèn Tồng Páo làm Ngọc Hoàng say mê. Nhưng khi Ngọc Hoàng thấy mặt vợ anh thì đòi đổi vợ - chín
lấy một. Nhờ mưu vợ, anh lên kiệu về trời làm Ngọc Hoàng còn Ngọc Hoàng sau đó
bị giết chết. Đoạn cuối còn thêm chi tiết: Con trai anh (do cô gái con vua Thủy
bấy giờ đã trốn về Long cung, đẻ ra) cùng mẹ lên trời tìm bố. Sau khi
trải qua một vài thử thách, Ngọc Hoàng tức Tồng Páo gặp lại vợ và con.
Ở truyện của người
Ma-rốc (Maroc) thì cốt truyện lại phát triển theo một hướng khác:
Một người câu cá
nghèo một hôm thả lưới cùng với người con trai, lần thứ nhất được một con lừa
chết, lần thứ hai một hòn đá, lần thứ ba mới được một con cá lớn. Trong khi người
bố bận việc về nhà trước thì người con vì thấy cá khóc nên tỏ lòng thương hại,
đã thả cá xuống nước. Sau đó, sợ bố đánh mắng anh bỏ đi một mạch. Dọc đường anh
gặp một người con trai chào đón rất niềm nở, rồi rủ anh đi đến một thành phố nọ,
luôn luôn tiếp đãi rất ân cần. Đi qua một cửa hiệu tơ lụa có nhiều hàng đẹp, thấy
anh trầm trồ có vẻ ưa thích, người con trai lạ thuê ngay một cửa hàng còn lớn
hơn nhiều cho anh quản lý. Ở đây có lắm thứ hàng quý lạ, thu hút sự chú ý của mọi
người. Vua thấy anh giàu có mời anh đến ăn tiệc và cho phép anh tự do thăm các
cung điện. Anh gặp công chúa và được công chúa mời uống chè. Một hôm, anh thấy
buồn, người trai lạ hỏi lý do, anh nói muốn lấy công chúa mà không biết
làm sao: - "Dễ lắm, người trai lạ nói, anh cứ đến hỏi có gì ta sẽ liệu".
Hôm sau anh ngỏ lời với vua. Vua bàn với hoàng hậu. Hoàng hậu đưa ra
một viên ngọc quý bảo anh phải mang một viên giống thế đến làm sính lễ. Người
trai lạ cho anh cả một túi ngọc quý. Anh mang đến cho vua và được ở trong cung
với công chúa. Anh ở lỳ đấy đến một năm, quên mất lời hẹn với bạn.
Sau đó bạn cũng giúp anh đưa công chúa về thăm quê bằng cách chuẩn bị chỗ ăn chỗ
nghỉ dọc đường rất chu đáo. Khi gần đến quê, bạn nói thật cho anh biết mình vốn
là con cá bị bắt dạo nọ cốt giúp anh để trả ơn. Rồi lại cho anh một thứ bột để
khi cần thì rắc một ít vào chỗ câu cá năm xưa, nó sẽ đến giúp.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment