Xưa, có một người
đàn bà làm nghề dệt vải. Nàng bản tính thông minh tháo vát, nhưng lấy phải người
chồng đần độn không làm được nghề gì nên thân. Một hôm, vợ đưa cho chồng mấy tấm
vải bảo mang ra chợ bán. Vợ dặn: - "Nếu không được bốn quan mỗi tấm thì đừng
có bán, nghe!"
Chồng mang vải ra chợ
đi khắp nơi, rao khản cả cổ mà chả có ai mua cả. Mãi về sau có một
ông cụ già mua cho hai tấm. Nhưng ông ta lại không mang tiền theo.
Ông cụ bảo hắn: - Chốc nữa anh đến nhà tôi lấy tiền nhé! Nhà tôi
cũng ở trong xã này thôi.
Hắn hỏi:- Nhà
ông ở đâu?
-Tôi ở chỗ: "chợ
đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt". Đến
đó tôi sẽ trả tiền ngay.
Đến chiều hắn đi tìm
người mua hàng chịu của hắn. Gặp ai hắn cũng hỏi thăm "chỗ chợ đông không
ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt" là ở đâu, nhưng chẳng một
ai biết thế nào mà trả lời. Người ta chỉ nói với hắn:- Thôi rồi, anh mắc
phải tay bịp bợm nào đấy thôi!
Hắn đi loanh quanh
mãi đến tối mịt không tìm được nhà, đành phải trở về ôm mặt hu hu khóc.Vợ hắn hỏi
tại sao thì hắn kể cho vợ nghe tất cả câu chuyện. Người vợ bảo:- Cũng
dễ tìm thôi! "Chỗ chợ đông không ai bán" là cái nhà trường, "chỗ
kèn thổi tò le" là bụi lau vì khi gió thổi nghe như tiếng kèn sáo,
"chỗ cây tre một mắt" là bụi hành hay tỏi gì đó. Vậy anh phải kiếm
người đó ở một cái trường học, gần đó có bụi lau, trước cửa có vườn trồng
hành tỏi.
Qua ngày sau, anh chồng
lại cất bước đi tìm. Quả đúng như lời người vợ nói, hắn gặp ông lão hôm qua. Đó
là một thầy đồ dạy học trò. Thấy hắn đến, ông đồ liền hỏi xem nhờ ai mách cho
mà biết được chỗ ở của mình. Hắn đáp: - "Tôi tìm ông suốt cả một buổi chiều
hôm qua. May nhờ có vợ tôi mách cho đấy". Ông thầy nghĩ: - "Người đàn
bà này hẳn là một cô gái thông minh tài trí, ít người sánh kịp". Hôm đó
nhân nhà có giỗ, ông đồ mời hắn ngồi lại ăn cỗ. Hắn ta cắm đầu chén một
bữa no nê lại được ông đồ gửi phần về biếu vợ. Nhưng khi trả tiền, ông đồ còn gửi
hắn một gói khác bảo đưa cho vợ. Trong đó chỉ có một cục phân trâu ở
giữa có cắm một cánh hoa nhài. Hắn ta chẳng hiểu gì cả cứ việc cầm lấy
về nhà.
Người vợ trông thấy,
hiểu ý ông thầy muốn mỉa mai mình:
Con vợ khôn lấy thằng
chồng dại
Như bông hoa lài cắm
bãi cứt trâu
Càng ngẫm nghĩ về
"gói quà", nàng càng buồn bực, trách chồng dốt nát để mang về cho
mình một lời trêu chọc chua cay, rồi nghĩ tới duyên phận hẩm hiu, nước mắt nàng
lã chã. Nàng vứt cái thoi, bụng bảo dạ: - "Thân thế ta thật chả ra gì.
Trên đời có bao nhiêu người khôn ngoan tài giỏi, còn ta thì lấy nhầm phải một
thằng chồng u mê đần độn!". Trong một cơn phiền muộn, nàng chạy ra bờ
sông, toan nhảy xuống dòng nước trẫm mình cho rồi một đời.
Lại nói chuyện ông
thầy dạy học, sau khi tiễn chân anh chàng bán vải ra khỏi cửa, nghĩ đi nghĩ lại
thấy sự trêu chọc ác nghiệt của mình thật là không phải. Ông đâm ra lo câu chuyện
đưa tới một kết quả không hay: - "Không biết chừng người đàn bà ấy phẫn chí
liều thân hoại thể thì ta sẽ có tội rất lớn với danh giáo". Nghĩ thế, ông
đồ bèn đi mượn một cái giỏ đựng cá thủng trôn, rồi mang ra bờ sông cùng với chiếc
cần câu làm bộ câu cá. Ông cứ men theo dọc bờ sông gần làng, đi lại trông chừng.
Khi thấy một người đàn bà ngồi trên bờ vắng đang ôm mặt khóc thút thít, ông biết
ý vội tiến đến gần, có ý chìa giỏ cho nàng thấy và nói:- Chị này ngồi tránh đi
chỗ khác cho tôi câu cá nào.
Người đàn bà đó đúng
là vợ anh chàng bán vải. Nàng ngước mắt trông lên thấy có một người đàn ông đầu
đã hai thứ tóc mà lại mang chiếc giỏ rách đi câu. Nàng tự nghĩ: - "Người
nào đây ngu quá là ngu. Chồng mình tuy khờ dại nhưng cũng chưa đến nỗi
này". Rồi nàng kết luận: - "Vậy ra chồng mình vẫn còn có những chỗ
hơn người". Nghĩ vậy, nàng bỏ ý định tự tử mà trở về nhà.
Hết.
KHẢO DỊ
Truyện này cùng một
cốt truyện với truyện Anh chồng ngốc ở miền Bắc, tuy mỗi bên có một số
hình tượng khác nhau:
Ở Bắc-ninh có cô gái
thông minh lấy phải anh chồng đần độn con một phú ông.
Một hôm vợ bảo chồng
đi chợ bán con chó nhà. Vợ dặn: - "Quan tám tiền ngay, quan tư
tiền chịu". Khi nghe hắn đòi như vậy, ai cũng cho là ngốc: mua tiền mặt lại
đắt hơn mua chịu. Một cụ đồ nghe hắn đòi, nghĩ bụng: - "Ý muốn của người
bán chó là bán chịu để có dịp đi đòi tiền mà thăm con chó của mình, như vậy là
người có nghĩa". Bèn mua chịu. Nhưng địa chỉ của cụ đồ là: "Tìm đến một
làng đầu làng có "hữu thủy vô ngư, hữu ngư vô thủy", vào một nhà có
"hữu kim vô chỉ, hữu chỉ vô kim". Cũng như truyện trên, khi đi đòi tiền
người mua chịu, hắn không biết đàng nào mà tìm, đành về khóc với vợ. Vợ giúp hắn
đi tìm, bảo đến làng nào đầu làng có giếng (hữu thủy vô ngư), lại có điếm canh
có mõ cá (hữu ngư vô thủy); rồi tìm đến nhà nào có rào găng (hữu kim vô chỉ),
có dây tơ hồng (hữu chỉ vô kim).
Ở đây cũng có câu
chuyện cụ đồ mời ăn cơm và gửi quà về biếu vợ nhưng quà tặng là một gói cơm nắm
gạo tám xoan, giữa có nhét mấy quả cà ủng. Vợ hắn nhận gói cơm biết ý nghĩa kín
đáo: - "Tiếc thay hạt gạo tám xoan; Thổi nồi đồng điếu lại chan nước
cà". Khác với truyện trước, người đàn bà này không có ý định trẫm
mình mà chỉ định bỏ nhà ra đi. Khi đến sông thì đã có ai cất mất ván
cầu, gần đó thấy có một cụ đồ đang lội bì bõm, hỏi thì cụ trả lời là đi tìm một
cái kim: "Cái kim là vật bao nhiêu mà cụ mất công như vậy?". -
"Nhưng nó là vật kỷ niệm của vợ tôi; cần phải có thủy có chung chứ". Cô gái thông minh suy nghĩ lại,
bỏ ý định trên.
Người Nùng có truyện Chàng
ngốc đi học kết hợp một phần truyện Cuộc phiêu lưu của chàng Ngốc:
Ngốc mồ côi bố, xách
túi bạc đi tìm thầy để học. Theo hai ông thầy thuốc rong chuyên làm cái việc
đánh cồng "phèng phèng"; sau ba năm chỉ nhớ có môn thuốc chữa mắt. Trở
về chữa lành cho con gái phú ông đau mắt đã ba năm, được phú ông gả cho làm vợ.
Từ đó cứ nằm dài ở nhà. Vợ giục đi buôn, trước hãy "buôn đầu chợ, ăn cuối
chợ". Hắn ta mua bánh ở đầu chợ ra khỏi chợ thì ăn hết, rồi về. Lần sau, vợ
bảo đi bán vải. Hắn hỏi: - "Bán ở đâu?". - "Chỗ nào đông người
thì bán". Thấy nhà trường đông người hắn đặt gánh chào nhưng chả ai hỏi cả.
Sau ba tiếng trống học trò vào học, hắn thấy vắng lại quảy hàng về. Vợ nghe kể
bực mình, một hôm trao cho chồng thoi vàng bảo đổi bạc bảo chuẩn bị đi buôn
chuyến khác. Thấy ngỗng phủ nhau giữa sông, hắn thương con vật bị chìm bèn thuận
tay cầm thoi vàng ném. Mất vàng nhưng về lại khoe với vợ là đã cứu được con ngỗng.
Vợ thân thân trách phận lấy phải chồng ngu đần bèn bỏ đi. Thấy hai chàng trai cắm
một bông hoa "coi" trắng trên một bãi phân trâu, nàng biết là họ mỉa mình.
Vì có câu hát "Bióoc noong đây lại chắp khỉ vài, Mi cần sau chỉnh vải pây đai" (Hoa em đẹp cắm bãi phân trâu, không người săn sóc có héo đi không).
Càng thêm tủi phận, nàng toan tự vẫn, đến bến gặp một người đang múc nước sông
lên để sàng - "Sàng nước để làm gì vậy?". Nàng hỏi. - "Để tìm
cái kim khâu". Nàng nghĩ bụng - "Vậy ra trong thiên hạ còn có kẻ ngu
hơn chồng ta".
Bèn trở về cố công dạy
chồng học. Cuối cùng chồng đỗ trạng.
Đồng bào Cham-pa có
truyện Trạng, trong đó có một đoạn nói Trạng đi tìm một người vợ lý tưởng
mà mãi chưa gặp được người nào vừa ý. Một hôm đến bờ một con sông, muốn sang mà
không thấy có đò, cũng không thấy bến. Trong khi chưa biết hỏi ai, bỗng gặp một
cô gái ở bên kia bờ. Trạng cất tiếng hỏi thì cô gái đáp: - "Hỏi người đi
cùng thì rõ". Trạng thấy người cùng đi với mình không có ai khác hơn ngoài
một cái rựa cán dài mà mình cầm tay, mới hiểu ra là dùng rựa dò đường sẽ lội được.
Biết cô gái khôn ngoan, qua sông, Trạng hỏi nhà để ghé chơi. Cô gái chỉ nói mấy
câu: - "Cổng làng có một giếng thơi. Một người có chửa đứng chơi trước
làng. Nhà thì giữa đám mây xanh. Trên từng mây trắng, xung
quanh sao vàng". Trạng không hiểu ra sao, bèn đi theo cô gái. Cô
gái nói: - "Tôi đang đi". Trạng hiểu ra là muốn đến nhà cô gái thì phải
đi ngược đường. Trạng tìm đến một làng trước cổng có giếng nước, hai bên bờ giếng
có cây chuối sắp trổ hoa. Trạng lại tìm vào một ngôi nhà xung quanh
có giàn mướp hoa vàng, trên mái nhà là dây bầu hoa trắng, biết là nhà
cô gái.
Người In-đô-nê-xi-a
(Indonesia) có truyện Người chồng tội phạm, đoạn đầu có cùng mô-típ với
các truyện trên:
Ở Xu-ma-tơ-ra
(Sumatra) có 4 cô gái xinh xắn thông minh hẹn nhau nếu không gặp được người
thông minh thì không lấy làm chồng. Gặp một chàng trai, họ mời đến chơi nhà. -
"Nhà các cô ở đâu?". Chàng trai hỏi. Cô thứ nhất trỏ vào tóc, cô thứ
hai trỏ vào lông mày, cô thứ ba trỏ vào hai vú, cô thứ tư lấy tay đập nhẹ vào
váy. Nói đoạn mỗi cô đi một ngả. Anh chàng không làm sao hiểu được. Đang suy
nghĩ bỗng gặp một người có tội bị trói phơi nắng, lưng còm, máu me đầm
đìa. Sau khi xin nước giải khát, người bị trói hỏi: - "Trông anh có việc
gì bận tâm thì phải?" Anh kia kể lại mấy câu đố của bốn cô gái. Người ấy
nói: - "Khó gì. Nhà cô thứ nhất kéo sợi, nhà cô thứ hai có hàng rào trúc,
nhà cô thứ ba trước cửa có cây thanh yên có hai quả, nhà cô thứ tư có khung dệt
vải". Anh kia tìm đến quả đúng. Bốn cô hỏi ai bày cho, anh nói thật. -
"Thế thì, anh không phải người chúng tôi mong đợi". Anh kia thẹn bỏ đi.
Đoạn sau truyện phát
triển gần giống với truyện Người ăn trộm và bốn cô gái của người
Khơ-me (Khmer). Ở đây bốn cô góp tiền lên quan chuộc tội cho anh bị trói về.
Sau đó cô thứ nhất vào rừng tìm thuốc, cô thứ hai tìm kiến thức ăn ngon, cô thứ
ba trổ tài nấu nướng, cô thứ tư lau rửa vết thương. Lành mạnh rồi, các cô hỏi
anh vì sao bị tội. Anh đáp: - "Bạn tôi có bố mẹ già, con dại, trót đi ăn
trộm để lấy tiền về nuôi. Tôi phải nhận tội thay để cứu anh ấy và gia
đình". - "Sao lại chơi bời với người xấu?". - "Không phải xấu
đâu. Ít hôm nữa việc xong, anh ấy sẽ đến chịu tội thay".
Bốn cô thấy anh vừa
có tài lại có đức, bèn ngỏ lời xin anh chọn một người làm vợ. - "Biết chọn
ai bây giờ?", anh đáp. Trong khi bốn cô tranh công nhau thì người bạn quý
đến chịu tội thay. Bốn cô nhờ người này phân xử hộ. Hắn đáp: -
"Cô tìm thuốc có tình cảm của một người bố, cô tìm thức ăn có tình cảm của
một người chị, cô nấu nướng là mẹ, cô chăm nom săn sóc thì mới đúng là tình cảm
của người vợ đối với chồng". Bốn cô chịu là phải1.
Còn nhiều truyện
khác nói về những nhân vật thông minh, có thể giải mã những dấu hiệu
hoặc những câu nói mang ý nghĩa như là một câu đố, gần giống với nội dung của
những truyện trên. Ví dụ truyện của Ả-rập (Arabie):
Một người trẻ tuổi
thông minh, có ý định đi tìm một người đàn bà thông minh để lấy làm vợ. Dọc đường
gặp một ông lão làm bạn đường. Đang đi anh hỏi: - "Ông mang tôi hay tôi
mang ông?". Đáp: - "Hỏi gì lạ vậy? Tôi cưỡi ngựa còn anh cũng vậy,
còn mang cái gì". Người kia không nói gì. Đến một đồng lúa tốt, anh hỏi: -
"Mùa này có thể được ăn hay không?". Đáp: - "Ngốc thật. Sắp gặt mà còn
hỏi". Lại đi nữa, thấy một đám ma anh hỏi: - "Người nằm trên đó chết
hay không chết?". - "Chẳng ai dớ dẩn như chú." Tuy vậy đến chỗ
chia tay, lão cũng mời anh về nhà nghỉ. Con gái lão hỏi bố về người khách, lão
đáp: - "Ồ, đó là một thứ dở hơi, hỏi những câu ngây ngô, chả ra làm sao cả".
Rồi kể lại cho con nghe. Nghe xong, cô gái nói: - "Chả phải dở hơi đâu bố ạ!
Về câu hỏi thứ nhất có nghĩa là: ông kể cho tôi hay tôi kể cho ông nghe một câu
chuyện để đường bớt dài. Về câu thứ hai nghĩa là chủ ruộng đã "bán
non" lúa và đã ăn mất số tiền ấy chưa? Về câu thứ ba nghĩa là người chết ấy
có được kẻ hậu sinh nhắc đến trong ký ức hay không. Lão bèn chạy ra giảng cho
khách biết. Chàng trẻ tuổi hỏi: - "Đây không phải ông nghĩ ra, vậy thì ai
bày cho ông?". - "Một cô gái". Cuối cùng anh chàng kết duyên với
con gái lão.
Xem thêm các truyện
khác tại đây:
-----