Ngày xưa, ở một vùng
nọ có hai vợ chồng một nhà phú hộ tuổi đã già mới sinh được mụn con gái, nên hết
sức chiều chuộng. Cô gái lớn lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ lại càng
nâng niu như vàng như ngọc. Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng
xong, phú hộ lại cho người đi tìm hoa thơm cỏ lạ trồng xung quanh vườn để con
thưởng ngoạn.
Bấy giờ trong đám rừng
sâu gần đấy có ba con cáo sống lâu năm thành quỷ, có phép biến hóa, thường quen
thói hại người. Nghe tin có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì
đang bỏ tiền ra mua các cây hoa trồng ở vườn, chúng rắp tâm phá phách, bèn hóa
thành một thứ cây có hoa rất lạ. Hoa có ba cánh: một cánh mầu xanh, một cánh mầu
trắng, một cánh mầu đỏ. Một người tiều phu lên rừng hái củi thấy hoa
đẹp chưa từng có, liền bứng lấy đưa về bán cho phú hộ. Thấy cây hoa đặc biệt,
phú hộ vội mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt nhưng
cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ quỷ không thành. Lâu ngày
hoa tàn cây héo, lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy, người phú hộ chặt
cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc, đẽo thành then cửa đem về chốt ở cửa
buồng của con gái.
Thế rồi sau đó mấy hôm,
một đêm kia trong khi cô gái đang ngủ, thì một con quỷ từ chiếc then cửa bỗng
hiện ra, lên giường, toan sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết sức chống cự
và kêu la inh ỏi. Biết không xong, con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến
vào then cửa. Khi vợ chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái nằm
thiêm thiếp trên giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập nhưng lay gọi mãi
vẫn không tỉnh. Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau, trong khi người
cha một mình chăm sóc cho con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối
hôm sau nữa lại đến lượt một người nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ
quá vội cho người mời một thầy phù thủy đến bắt quyết trừ tà. Thầy làm phép
trong ba ngày ba đêm thì phú ông và người hầu tỉnh lại. Duy chỉ có cô con gái
là quỷ đầu đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay nhưng quỷ vẫn chẳng
coi ra mùi gì. Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ vì phép thuật đã giở ra hết mà cô
gái vẫn nằm lịm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy người ta tin rằng
ngôi lầu có quỷ nên không ai dám lui tới.
Một buổi chiều nọ,
có một thầy cử tên là Long đi thi hội, đến đây thì lỡ độ đường. Thấy có ngôi
nhà tốt, anh bèn ghé vào xin nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và
nói:
- Chẳng giấu gì
ông, nhà chúng tôi đang bị lũ quỷ quấy nhiễu. Ông nên tìm chỗ khác mà trọ, kẻo
mang vạ vào thân.
Nghe đoạn, Long vội
nói với vợ chồng phú ông:
- Đã là học trò
đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà cứ cho tôi
nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi lại không trừ được nạn cho ông bà.
Vợ chồng phú hộ nghe
nói bèn mở cửa đón khách vào. Ăn xong bữa chiều, Long khoan thai bước
lên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn và một con dao sắc. Đêm lại,
anh thắp đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên người. Đến khuya, một
con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với trạng mạo một cô gái xinh đẹp.
Long vẫn điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc nó biến đi.
Lần thứ hai, một con khác tiến vào dưới dạng một người mặt mày hung ác, tóc
xõa, lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm vào người Long, nhưng anh vẫn thi
gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu đàn đang hớp hồn
cô gái, bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú
lên mấy tiếng: - "Có bậc quý nhân... Trốn cả mau!".
Long lần này đã cầm sẵn dao ngồi rình, nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát,
con quỷ đứt mất một chân. Long chạy theo đến cửa buồng cô gái thì thoáng thấy cả
ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh cầm lấy chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy
đấy là một cái chân con cáo. Vì quỷ đau quá phải buông thả hồn ra nên ngay lúc
đó cô gái cũng tỉnh dậy. Long liền đến gần hỏi chuyện. Biết đó là người cứu
mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời cảm ơn. Long dẫn nàng ra cho vợ chồng phú hộ.
Lại đem chân con quỷ cho mọi người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục tài anh
học trò.
Sáng hôm sau lúc lên
đường. Long từ chối vàng bạc của hai vợ chồng phú hộ đưa tặng, chỉ xin họ cái
then cửa buồng giắt vào thắt lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba con quỷ hiện
ra, phủ phục trước mặt, khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa. Long cười:
- Không được!
Chúng mày có tài phép gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ
cho chúng mày vào lửa.
- Xin ngài tha
cho chúng tôi - ba con quỷ đáp - chúng tôi xin tặng ngài những vật quý.
- Vậy thì
đưa ra đây ngay, nếu không thì đừng có trách!
Con quỷ thứ nhất đưa
tặng Long một cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm hễ rút ra khỏi túi
thì trời sẽ sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sẫm như cũ. Con thứ
hai tặng một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần
đến đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đường.
Long vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm
bên đường.
Sau đó, Long nhảy
lên lưng ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập tức ngựa hý lên một tiếng rồi lao
rất nhanh, bàn chân không chạm đất. Chỉ một lát sau, ngựa đã đặt anh xuống ở
phía ngoài hoàng thành. Long ở lại đây sắm sửa mọi thứ để dự kỳ thi hội.
Hôm bắt đầu thi, bài
của Long làm rất đắc ý. Cho nên thi vừa xong buổi sáng, anh bỗng nhớ đến vợ. Sẵn
có con ngựa quý, anh nhảy lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà. Ngựa phóng tít
mù, chỉ vừa chập tối là đã đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Long đang ngủ, rất
kinh ngạc vì thấy chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vội trở về. Long
không muốn thức cha mẹ dậy, nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi
hai vợ chồng nhỏ to trò chuyện cho đến tờ mờ sáng anh mới lại lên đường.
Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng chuyện trò rì rầm của đôi vợ chồng đã thức tỉnh
cha mẹ Long nằm ở buồng bên. Hai ông bà không tin là con trai mình về,
chỉ ngờ rằng nàng dâu có nhân tình nhân ngãi chi đây. Cho nên sáng hôm sau ngủ
dậy - lúc ấy Long đã cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa báo
tin - hai ông bà vội vào buồng nàng dâu gạn hỏi. Vợ Long trước còn giấu quanh,
nhưng sau thấy không giấu được nữa, đành phải kể lại câu chuyên chồng về tối
hôm qua, cùng những việc chồng mình trị quỷ và được chúng tặng ngựa quý ra
sao, v.v... Nhưng bố mẹ chồng làm sao mà tin được một việc
khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm tệ. Vợ Long không biết lấy gì làm
chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều ấy Long lại về. Được
tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực.
Long kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe:
- Sáng hôm nay
ngựa đưa con vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi bắt đầu gọi
tên những ai thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ vội ra nhà trọ thu xếp
hành lý, phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do
đức hoàng đế đãi các ông nghè ở điện Thiên quang.
Nghe nói có con ngựa
thần một ngày ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử. Long hỏi: - Bố
muốn đi chơi đâu bây giờ?
- Bố thường ao
ước được vào tận trong Đồng-nai Gia-định để du ngoạn một phen.
- Được.
Sáng hôm sau, ông
già cơm nước xong, nai nịt chỉnh tề bước ra sân. Long nắm dây cương trao cho
cha. Ông già vừa nhảy lên yên thốt ra hai tiếng "Gia-định!", ngựa đã
phóng đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu nữa. Cho đến tận chiều, vào lúc
mặt trời gác núi, con ngựa quý lại phóng như bay trở về, đặt ông già xuống giữa
sân. Ông vui vẻ mở tay nải lấy quà mời mọi người nếm thử, rồi kể chuyện tai
nghe mắt thấy ở Gia-định.
Mẹ Long nghe chồng hết
lời ca ngợi con ngựa thần, cũng có ý định muốn đi chơi Đồng-nai Gia-định một
chuyến dối già. Qua hôm sau, Long lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ lên yên. Nhưng
ngựa chưa kịp bước ra khỏi cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn xuống đất.
Một luồng khói trắng từ trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi người
xúm lại xem thì con ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Long đã cưỡi ngựa
thần không đúng lúc vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà
đi.
Không những mất một
tặng vật vô giá, ông tiến sĩ tân khoa còn đứng trước mối hiểm nguy khó thoát được
tội "khi quân", vì trước mắt không có cách gì để tiến kinh
cho kịp chiều mai dự yến. Đường từ quê Long đến kinh thành đi bộ mất
bốn năm ngày đường, đi ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn, Long
đành bắt một con ngựa thường, chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho
con vật phi nước đại.
Con ngựa đi đến tối
mịt mà vẫn chưa được một nửa đường. Nằm nghỉ ở quán trọ, Long lo lắng hết sức.
Anh sực nhớ tới một tặng vật "mặt trời" do con quỷ thứ nhất biếu vẫn
còn cất trong túi vải. Thế là Long tìm ra một diệu kế. Ngay hôm sau, Long lại
lên ngựa phóng đi. Cho đến khi mặt trời sắp gác núi, anh liền lôi "mặt trời"
của mình ra treo trước đầu ngựa. Thốt nhiên, một chuyện lạ chưa từng có xảy ra:
đâu đâu cũng không thấy tắt ánh mặt trời. Cho đến khi con ngựa đưa Long đến trước
điện Thiên-quang, anh mới cất "mặt trời" vào túi, bấy giờ bầu
trời đang từ ban ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột.
Long buộc ngựa xong,
bước vào điện. Nhưng cũng đã muộn mất rồi. Mọi người chờ mãi không thấy đêm xuống,
song thức ăn thì đã nguội cả, nên sau cùng Hoàng đế đành ra lệnh cho các ông tiến
sĩ cứ bốn người một, ngồi vào mâm. Khi Long bước vào. thì tiệc rượu đã hầu tàn.
Biết việc chậm trễ có thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ "phủ
phục" trước sân điện, một hai viện lý do "không thấy trời tối" để
mong được nhẹ tội. Vua tha cho anh, nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri
huyện một huyện từng nổi tiếng có nhiều vụ án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồng
rùng rợn rằng từ trước đến nay, hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị ma quỷ
vật chết, Long vẫn ung dung về trị nhậm.
Theo tục lệ ở vùng
này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân các làng xã đều phải mang lễ vật đến
chào quan. Cho nên những ngày Long mới chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng
kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công đường. Long tiếp chuyện mọi người rất ân cần,
nhưng nhất thiết từ chối mọi lễ vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán
dân nào ra về thì lén đi theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba, một trong
những người lính hầu mà Long phái đi theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ
vật trở về. Người lính thấy hai người này đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngả mà
vẫn chưa đến nơi. Cho đến khi tắt ánh mặt trời mới thấy họ đến
sát một cái giếng hoang bên cạnh đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội vùng xuống
giếng, rồi thoáng một cái đã biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính vội
đi suốt đêm trở về báo lại tình hình cho quan biết.
Sáng hôm sau, Long hạ
lệnh cho một toán lính huyện tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra sức tát suốt cả một
ngày. Nhưng thật là lạ lùng! Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy nhiêu. Mấy
ngày sau nữa công việc cũng không nhích lên được tý nào. Bọn lính huyện cảm thấy
rất chán nản. Một đêm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ bỗng thức
giấc thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau. Một
con hỏi: -
"Nếu chúng nó
kéo tới đông thì có tát cạn chăng?". Con kia đáp: - "Nhiều người cũng
vô ích thôi. Chỉ có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không có cách
nào khác".
Người lính bèn đem
câu chuyện ấy trình lên quan. Long nói ngay:
- Chính ta là rồng
đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng.
Nói xong Long cưỡi
ngựa về tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần cầm lấy gầu tát lấy
tát để. Quả nhiên chỉ một mình Long đã làm cho nước giếng dần dần cạn thấu đáy.
Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không tìm thấy quỷ. Giữa ban ngày,
quỷ có phép tàng hình, mắt người không thể nhìn thấy được. Nhưng đêm
đến, quỷ lại dựa vào tối trời, lẩn lút trốn nấp trong các hang hốc làm cho Long
và lính hầu tìm hết hơi mà không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc
nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt ngấm, không thể chụm lên được. Long sực nhớ
tới món tặng vật bèn mở túi lấy "mặt trời" ra treo lên đầu
ngọn tre. Lập tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì là ban ngày nên
quỷ lại tàng hình lọt khỏi con mắt của mọi người. Sau cùng Long nhớ đến món tặng
vật thứ hai. Vừa đưa ra khỏi túi, "mặt trăng" tỏa một thứ ánh sáng dịu
mát vào khắp mọi nơi. Long liền mang "mặt trăng" đi lần xuống giếng,
tiến vào các hang các hốc. Dưới ánh sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàng
hình nổi. Cho nên chỉ một chốc, chưa giập miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được
hai con quỷ. Chính đó là hai con xà tinh quen thói hại người, thường dùng một
cái hang ở đáy giếng làm sào huyệt. Trước mặt Long, hai con quỷ cúi đầu van lạy
xin quan sinh phúc tha cho tính mạng, từ rày không dám làm hại ai nữa. Long sai
lính giải chúng đi đày thật xa. Từ đây dân huyện ấy sống yên ổn.
Hết.
KHẢO DỊ
Một truyện của người
Mèo Hang rồng có một số tình tiết tương tự với truyện trên:
Theo Lăng-đờ
(Landes), sách đã dẫn, và lời kể của người Bình-định.
Có hai anh em hàng
ngày đi kiếm rau lợn, một hôm thấy có người của nhà vua đến trước núi đá nói ba
lần: - "Rồng à, mở cửa!". Sườn núi bỗng mở ra cho họ vào. Khi họ ra,
lại nói ba lần: - "Rồng à, đóng cửa lại!", sườn núi khép lại lại
như cũ. Chờ khi họ đi xa, hai anh em cũng đến gọi như thế. Sườn núi liền mở ra,
hai anh em bước vào thấy nhiều đồ đạc quý giá, trong đó có một cái ngai vàng rất
đẹp. Trở về, hai anh em mách cho bố biết rồi dắt bố vào hang. Bố trèo lên ngai
vàng ngồi chơi, chẳng may người dính chặt vào ngai không gỡ được. Biết thế nào
cũng chết, bố dặn con về làm chiếc nỏ chín sải khi nào có cờ trắng xuất
hiện thì bắn chết người có cờ (vua). Từ đấy cửa hang đóng kín, không mở theo
tiếng gọi nữa. Anh em về làm theo lời bố dặn, nhưng lại bắn không trúng người
có cờ.
Biết việc bí mật bị
lộ, vua cho truy hỏi những người vào hang lần trước xem có gặp người nào chăng?
Họ đáp: - "Có gặp hai đứa bé hái rau lợn". Vua sai lính bắt hai anh
em về trị tội. Lính đến nhà bắt họ đi. Dọc đường trời tối, tất cả nghỉ lại ở một
nhà nọ. Thấy khách lạ, chủ nhà nói: - "Nhà chúng tôi có một đứa
con gái bị ma quấy, đêm nào cũng rên la". Đêm ấy, trong khi bọn
lính ngủ say, hai anh em đang lo lắng thao thức, bỗng nghe tiếng gọi: -
"Ngưỡng cửa, ngưỡng cửa mở mau cho tao vào!". Tiếng trả lời: -
"Nhà có quý khách, "ma nước" hãy đi đi, mai lại tới". Ma nước
bỏ đi, nhờ thế, đêm ấy người con gái chủ nhà không rên la gì. Chủ nhà cho là
hai anh em có phép bèn nhờ họ trừ hộ. Chờ cho mọi người lui ra, hai anh em tra
hỏi cái ngưỡng cửa. Ngưỡng cửa cho biết là dưới cái ao sau nhà có con "ma nước"
vốn là một con ếch thành tinh. Cô gái này đi lấy nước đánh rơi chiếc nhẫn xuống
ao, ma nước nuốt lấy chiếc nhẫn, từ đó thường về quấy. Muốn trừ nó thì chuẩn bị
một ống chỉ buộc một đầu vào chiếc búa, rồi trong khi làm lễ cúng ma, hễ thấy một
người đàn bà nào cao lớn hãy dùng búa bổ mạnh vào đầu, ma sẽ mang theo sợi chỉ
chạy về. Lúc ấy thuê nguời tát cạn ao lần theo sợi chì mà tìm sẽ bắt được một
con ếch làm thịt ếch nướng cho cô gái ăn, sẽ khỏi. Ngưỡng cửa lại bảo khi nào bố
mẹ cô gái đền ơn, thì nhớ xin tôi mang theo, tôi sẽ giúp cho nhiều việc. Hai
anh em làm theo lời, cô gái qua khỏi. Khi ra đi, họ xin cái ngưỡng cửa thay cho
tiền tạ ơn.
Dọc đường họ hỏi ngưỡng
cửa làm cách gì để khỏi bị vua làm tội. Ngưỡng cửa dặn khi nào thấy hổ trắng
thì bảo nó nằm phục xuống rồi cưỡi lên lưng nói: - "Đây là ngựa ta!".
Gặp hổ đen cũng làm như vậy. Gặp tổ ong bò vẽ thì mang cả tổ theo, nói: -
"Đây là quân ta!". Khi về triều chúng nó sẽ cứu mạng. Họ lần lượt gặp
hổ trắng, hổ đen và tổ ong vò vẽ. Làm theo lời dặn họ cưỡi hổ về triều. Thấy vua
quan, hổ xông ra ăn thịt. Quân triều xông lại bị ong đánh đuổi. Hai anh em bèn
lên làm vua.
Về chỗ Long cưỡi ngựa
thần đêm lẻn về với vợ, sáng dậy lại cưỡi vào kinh làm bài, người Bắc-giang
cũng có một truyện dưới dạng thần tích có hình tượng tương tự.
Ngày ấy có giặc Bắc
sang xâm lược, vua sai sứ đi tìm người tài giỏi cứu nước. Sứ giả tìm được Vũ
Thành, người anh hùng ở xã Tùng-linh, huyện Lục-ngạn. Vũ Thành xin vua một
thanh gươm, một con ngựa trắng đem quân ra trận. Vua phong là Đầu thượng
tướng quân. Nhưng con ngựa vốn có phép thần, nên đêm đêm anh thường lẻn về với
vợ, không một ai biết. Người vợ có thai. Mẹ chồng mắng nàng dâu sao không giữ
trinh tiết với chồng. Vợ Vũ Thành đáp: - "Chồng con thường đêm đêm lẻn về
nhà, sáng mai lạl đi sớm. Nếu mẹ không tin, con xin giấu gươm của chồng con
trình mẹ hay".
Một đêm, Vũ Thành về
nhà, vợ giấu thanh bảo kiếm rồi thay vào một chiếc gươm gỗ. Khi Vũ Thành giáp
trận rút gươm ra chém giặc, không ngờ gươm gỗ vô dụng bị quân giặc xông lại chém
đứt đầu. Vũ Thành chỉ còn biết ôm lấy đầu phi ngựa về. Đến một nơi nọ gặp một
bà lão, bèn hỏi: - "Mất đầu còn sống được chăng?". Bà lão trả lời: -
"Mất đầu thì chết!". Nghe đoạn Vũ Thành lăn xuống ngựa chết.
Cũng dưới dạng thần
tích, người Nùng Lạng-sơn kể như sau:
Ngày xưa có một
chàng trai được mẹ cho đi học với một thầy đồ ở làng. Hàng ngày anh phải chăn
ngựa cho thầy. Một hôm con ngựa ấy được một đám mây trắng phủ, đẻ ra một con ngựa
đá. Anh trèo lên lưng nó cưỡi chơi, không ngờ đó là con ngựa thần, nó bay lên
trời, đưa anh đi rất xa theo ý muốn, rồi lại trở về trong phút chốc. Về sau,
anh học với một ông thầy khác ở nước ngoài. Nhờ ngựa thần anh sớm tối đi về
không phí sức.
Một hôm, vợ anh muốn
đùa chơi nên trước khi lên rừng hái củi, giấu kỹ chiếc giày của anh thường
mang. Thấy mặt trời đã lên cao mà chưa tìm ra giày, anh liền cưỡi ngựa thần bay
lên trời kéo mặt trời xuống, làm đến ba lần như vậy vẫn không tìm thấy
giày, bất đắc dĩ anh lấy đất bùn nặn thành một chiếc giày giả rồi cưỡi ngựa đi
học. Ở trường, thầy bảo trò: - "Hôm nay mặt trời lên xuống ba lần.
Đó là điềm vua (hay trạng) xuất hiện". Sau đó thầy bảo trò mang lưới đi
đánh cá để làm thức ăn. Chiếc giày đất của anh tan ra trong nước. Thầy tức giận
cho là vô lễ bèn chém chết. Anh nhặt đầu đặt lên cổ rồi cưỡi ngựa đá về hỏi mẹ:
- "mất đầu còn sống được chăng?" Mẹ anh cũng đáp: - "Mất đầu thì
chết!". Anh ném đầu xuống ngã ra chết sau khi dặn vợ, đặt xác mình ở đầm,
mỗi ngày đốt một nén hương và nấu một nồi cháo để nguội rắc xuống đầm, đủ một
trăm ngày sẽ sống lại. Vợ nghe lời, làm được chín mươi chín ngày, nhưng đến ngày thứ một trăm,
vợ đi rừng lấy củi, ở nhà mẹ không biết, đổ cả nồi cháo nóng xuống đầm, các con
trùng chết hết.
Hồn anh lại báo mộng
cho vợ bảo vớt những con trùng chết chôn ở vườn tre, khi tre tốt nếu có ai hỏi
mua bảo phải có đủ một trăm đồng tiền mới bán. Vợ làm theo. Một hôm có quan
quân đi qua bị gãy đòn cáng. Một người lính tìm đến nhà hỏi mua một cây tre tốt,
nhưng hắn chỉ có chín mươi chín đồng tiền. Người vợ không bán. Nhưng sau đó người
mẹ vì không biết chuyện, nên nhận lời bán. Lúc người lính chặt tre, thấy trong
cây tre người đã thành hình nhưng còn non yếu, chẳng mấy chốc thì chết. Vì vậy
anh không sống lại được nữa.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment