Xưa có một người làm nghề kiếm mật
ong và sáp nuôi thân. Hàng ngày ông ta đeo trên lưng một chiếc gùi,
tay cầm cán có buộc bùi nhùi và giẻ đi vào rừng tìm tổ ong. Một hôm đang đi
trên một con đường vắng, ông bỗng nghe ong kêu vù vù, ngẩng nhìn lên thì thấy một
tổ ong mật. Mừng quá, bèn như thường lệ, ông đốt bùi nhùi rồi trèo lên cây đuổi
ong đi để gỡ lấy sáp và mật. Nhưng tổ ong hôm ấy lớn quá, ông thu được một gùi
đầy ắp nên không thể xuống được, vì cây vốn đã khó trèo, lại sợ không khéo đổ hết
mật thì uổng. Đành phải ngồi lại ở một cành chẽ ba, đợi có người đi qua nhờ họ
giúp cho xuống. Đợi đến trưa, ông bỗng nhác thấy bóng một con voi sắp sửa đi tới,
trên đầu có một thằng nài. Người kiếm mật mừng quá, bèn nói lớn:
- Anh nài ơi anh nài! Vì tôi lấy
được nhiều mật và sáp mà cây lại khó xuống, anh hãy làm ơn đỡ tôi một tí, tôi sẽ
chia cho một nửa về mà dùng.
Từ xa, anh nài đã nhìn thấy thế cheo
leo của người kiếm mật, liền nghĩ ngay một cách giúp bèn đáp:
- Ông hãy leo nhanh ra phía
ngoài nhánh cây, hai tay nắm lấy nhánh rồi buông thõng chân xuống, tôi đứng ở
lưng voi, tôi sẽ đỡ ông. Mau lên!
Nói đoạn anh nài bèn đứng dậy chuẩn
bị tư thế chờ voi đến nơi để kịp thời đỡ người kiếm mật. Nhưng khi hai tay anh
nài nắm lấy hai chân người kiếm mật, thì con voi tưởng là giục nó đi nhanh,
bèn cứ thẳng đường rảo bước. Thành thử nài ta hổng chân, đã không đỡ
được người kiếm mật mà lại đu người vào chân ông ta. Về phía người kiếm
mật đã đeo một gùi nặng sau lưng lại đeo thêm một khối nặng ở dưới chân, bên
càu nhàu:
- Ối! Anh hãy buông tôi ra mau,
không có nhánh cây mà gãy, cả hai rơi xuống gãy cổ chết hết bây giờ.
Nài ta cũng nổi xung nhưng nén giận,
nói:
- Buông sao được! Buông thì
què mất còn gì. Tôi không ngờ vì ông mà phải thế này. Thôi ông hãy
níu cho chắc đừng có buông mà chết cả đôi.
Thế là cả hai rên rỉ trên cây cao,
riêng nài ta vẫn bám chặt vào hai chân người kiếm mật.
May sao, chỉ chừng giập bã trầu, bỗng
có bốn ông sư đi làm đám về qua đó. Thấy họ, hai người mừng rỡ như gặp cứu
tinh, bèn nói chõ xuống:
- Bạch các thầy, xin các thầy hãy
thương lấy chúng tôi. Cứu được một người phúc đẳng hà sa. Có sáp đầy
gùi đây, chúng tôi xin dâng tất cả để cúng Phật.
Bốn nhà tu hành "phát bồ đề
tâm", vội nghĩ cách cứu hai người bị cảnh nguy cấp. Họ đều bối rối không
biết tính thế nào. Sau cùng có một người hiến kế giở tấm vải bọc quyển kinh ra,
buộc mỗi góc tấm vải vào cổ một người, và ai nấy đều đứng ưỡn cổ ra phía sau,
thủ thế dưới chỗ nhánh cây cho hai người kia nhảy xuống đúng vào giữa tấm vải.
Như vậy dù vải có rách thì cũng
không làm cho họ đau đớn, ít nhất là khỏi chết oan mạng. Nghe nói, cả ba vị sư
kia đều lấy làm phải, và họ bắt tay vào làm ngay. Xong, họ ra hiệu. Trên cây cả
hai người buông tay rơi trúng đích, lăn vào lòng tấm vải. Nhưng thật là bất ngờ.
Vì quá nặng, nên bốn cái đầu trọc va vào nhau quá mạnh, chết ngay tại chỗ,
không kịp la. Hai người kia thấy vậy, nghĩ đến gông cùm đang chờ mình ở công đường,
nên không ai bảo ai, trốn ngay tắp lự.
Gần chỗ xảy ra tai nạn không xa, có
một cái quán bán rượu. Chủ quán là một người đàn bà, nhưng hôm ấy lại đi vắng,
mãi đến quá trưa mới về. Thấy có bốn cái xác sư ông chết ở gần quán của mình,
thì hồn vía mụ lên mây, không phải vì sợ hồn ma quấy phá,
mà sợ rồi đây quan nha lính tráng hương chức làm tình làm tội, khó lòng sống nổi.
Nghĩ vậy mụ quán đem hết can đảm và sức lực lần lượt lôi bốn cái xác
kia về phía sau quán để tìm cách chôn đi cho biệt tích.
Khi mụ kéo xong cái xác thứ
tư thì ngoài cửa bỗng có một người đi vào. Mụ quán xanh mắt tường việc
của mình đã bại lộ. Vừa ló mặt ra nhìn, mụ mới biết đó là một lão sãi1,
khách hàng quen thuộc vẫn hay đến quán mụ để thỉnh thoảng làm vài
chén ấm bụng. Chợt nghĩ ra được một kế, mụ quán ân cần rót cho khách
một chén rượu ngon, rồi làm bộ rầu rĩ, nói:
- Tôi vô phúc có một đứa cháu
trai mấy lâu đi ở với người ta, rồi nó mang bệnh trở về. Tôi đã cạo đầu cho nó
để may ra nhờ Phật tổ tế độ cho khỏi tiền oan nghiệp chướng, không ngờ ngày hôm
qua nó nhiễm gió độc mà chết. Tôi già cả chẳng biết tính liệu làm sao, thật là
cơ khổ.
Sãi ta vốn quen nghề chôn cất thuê,
liền đáp ngay:
- Khó gì việc ấy. Chỉ một vài
nhát thuổng là xong, tôi sẽ giúp cho mụ. Còn công xá thì mụ cho tôi
vài bầu rượu là đủ.
Mụ quán không từ chối tấm nhiệt tình
của sãi, bèn nói:
- Lão cứ giúp tôi chu tất, rồi
muốn uống bao nhiêu cứ đến đây mà uống, tôi có tiếc gì.
- Thế thì mượn cho tôi một cái
cuốc, một cái thuổng, chập tối tôi sẽ đến.
Chập tối lão sãi đến rất đúng hẹn. Mụ
quán đã lấy chiếu bọc cái xác thứ nhất bó thành một bó. Lão vác lên vai rồi cầm
cuốc thuổng dò dẫm đi lên cồn hoang quen thuộc sau khi phải qua một cái cầu tre
gập ghềnh.
Nhưng khi lão chôn xong, vừa về quán
đã thấy mụ quán đang ngồi khóc trước một bó chiếu đặt giữa quán. Lão chưng hửng:
- Lạ chưa, lại còn xác nào đây?
Mụ mếu máo nói:
- Lão chưa biết, cháu nó vốn mồ côi
cha mẹ nên rất mến tôi. Hồi nó đi ở, tôi phải la mắng năm hồi
bảy chập, nó mới chịu ra đi. Nay nó chết oan, không nỡ bỏ tôi, lại tìm cách lộn
trở về. Ôi cháu ơi là cháu?
Lão sãi sờ vào đầu quả thấy cái đầu
trọc, thì tỏ vẻ tin, nói:
- Lạ quá! Thôi được, tôi sẽ
mang đi xa hơn và đào sâu hơn, coi thử nó có về được nữa hay không?
Thế rồi cầm bát rượu của mụ quán
trao cho, lão làm một tợp rồi vác bó chiếu cắm cổ ra đi. Nhưng lúc lão ta
về quán lần thứ hai thì lại đã thấy một bó chiếu đặt nằm giữa quán như trước.
Lão không còn hiểu thế nào nữa, hỏi dồn:
- Lạ chửa. Nó vẫn còn về sao? Mụ
trả lời nước mắt giàn giụa:
- Tôi đã dặn rồi, không đào sâu chôn chặt thì nó còn làm khổ cả tôi và ông. Cháu
tôi thiêng lắm.
- Thôi được, lần này tôi chôn
thì không thể nào về được nữa.
Nói rồi lão lại vác bó chiếu lên vai
ra đi. Nhưng lần thứ ba trở về lão lại thấy lù lù giữa quán một bó chiếu như
cũ. Lão dụi mắt nhìn cho rõ. Vẫn cái đầu trọc lấp ló trong chiếu.
Lần này mụ quán làm mặt giận, nói:
- Tôi tưởng lão đã quen với việc
đó, có ngờ đâu cứ để nó lộn về mãi thế này. Thật là cháu tôi làm tội làm tình
lão mà rồi đêm nay nó còn làm phiền tôi đến đâu.
Sãi ta tuy bực hết sức nhưng cũng dịu
giọng:
- Cả đời tôi chôn biết bao
nhiêu là xác rồi, chưa bao giờ tôi thấy lạ lùng như hôm nay. Thôi mụ bớt
giận. Để tôi chôn lần nữa coi. Nếu nó còn về thì tôi thề không làm cái nghề này nữa.
Nói rồi lão lại vác bó chiếu đi. Đến
một nơi xa, lão đào lỗ sâu quá đầu người rồi mới bỏ bó chiếu xuống, lại nện đất
thật chặt mới ra về.
Khi lão về đến cầu, tuy đêm hôm tối
tăm, lão vẫn nhận ra một cái bóng như bóng người đang ngồi xổm ở mép cầu.
Tiến lại gần: lão đã nhìn thấy thấp thoáng một cái đầu trọc. Lão chép miệng: - "Chết
thật. Cả đêm nay, tao những khổ sở về mày. Mày có quyến luyến bác mày cũng
phải nể tao với chứ. Tao đã vì mày đào sâu chôn chặt đến bốn lần rồi, vậy mà
bây giờ mày còn định làm tội làm tình như thế nào nữa?". Số là người ngồi ở
cầu vốn là một chú tiểu đêm khuya ra ngồi phóng uế, không ngờ lại nhằm vào lúc
lão sãi vừa chôn cái xác thứ tư trở về. Thấy có người tới, tiểu ta vội đứng dậy
định đi, nhưng lão sãi đã cho một đạp lộn cổ xuống sông, vừa đạp lão vừa nói:
- Tao mệt lắm rồi,
thôi lần này cho mày xuống thủy phủ đi thôi.
Hết.
KHẢO DỊ
Cũng ở miền Nam, truyện này còn có một
dị bản Bốn anh thầy chùa đi làm đám, kể như sau:
Có bốn thầy chùa và một hòa thượng
(thầy cả) đi làm đám. Chủ dọn cơm, cả năm từ chối không ăn, cốt để lấy tiền. Về
dọc đường bụng đói, thấy có cây dừa có quả, bèn bàn nhau bẻ trộm đưa về ăn. Thầy
cả nói: - "Chúng ta là kẻ tu hành, dừa quẳng xuống thình thình làm động đất,
người ta mà biết thì xấu hổ". Cũng như truyện trên, hắn nghĩ cách quẳng dừa
xuống không có tiếng động bằng cách cho bốn thầy nắm bốn chéo một tấm chăn, để
mình leo lên hái, ném vào chăn. Không ngờ thầy cả tham lam, hái một lúc cả buồng
nặng quá. Khi thả xuống, chăn kéo mạnh, bốn người va đầu vào nhau, chết cả. Thầy
cả thất kinh chạy nhanh về chùa. Thấy một tên trộm đang rình, thầy bảo hắn đừng
ăn trộm, thầy sẽ thuê chôn một thầy chùa "mắc dịch" với số tiền một
trăm quan, nhưng cũng dặn chôn kỹ kẻo nó về. Tên trộm nhận lời, và cũng như lão
sãi trong truyện trên, mắc lừa thầy cả, mất công đến bốn lần. Nhưng ở đây lần
thứ tư, tên trộm không chôn nữa mà ném xác xuống sông. Tiếng động làm cho một người
hủi trọc đầu ngồi ở cầu giật mình ngã lộn cổ xuống sông. Hắn vội bơi
vào bờ, nhưng tên trộm lại tưởng đó là xác thầy chùa lộn trở về liền
chạy xuống bờ đập đầu hắn xuống nước, và nói: - "Mày còn hành tội tao nữa
hay thôi".
Dị bản này ở người Thái-lan là truyện Nhà
sư già muốn lấy vợ.
Một nhà sư leo lên cây, hụt tay rơi
xuống, may bám được một cành lá thốt nốt treo lơ lửng. Nhờ bốn người tu hành
khác đi qua giúp cho xuống bằng cung cách mà họ tưởng là an toàn, như các truyện
trên. Kết quả cũng thế, bốn cái đầu va vào nhau chết cả. Trong khi nhà sư bỏ
trốn, thì một người đàn bà nhà ở gần đấy sợ bị vạ lây bèn đi tìm một sư già nhờ
đốt xác hộ. Sư già chỉ bằng lòng với điều kiện là chị ta phải lấy mình sau khi
mình hoàn tục. Chị này vốn chẳng thích lấy sư già nhưng không có cách nào khác,
đành phải nhận.
Cũng như truyện trên, sư già phải đốt
đến bốn lần. Lần thứ tư, hắn bực mình, chặt đứt đầu cái xác mà đốt. Vừa lúc ấy
có một nhà tu hành khác đi đường bị bọn cướp chém phải đầu, vùng thoát được, chạy
đến định nhờ sư già băng bó. Không ngờ sư già lại tưởng là ma sống lại,
bèn nắm lấy hắn ném vào lửa, nhưng hắn còn khỏe, vùng chống lại và cuối cùng cả
hai đều chết trong lửa. Thấy vậy người đàn bà yên lòng vì chị ta rất không muốn
kết duyên với sư già.
Dị bản ở người Lào cũng gần như truyện
của Thái-lan:
Có bốn chàng trai đầu hói. Họ gặp
hai chị em, cả bốn anh đều thích cô em. Vì bốn anh em giống nhau như
đúc nên cô em nhầm, thành ra tằng tịu với cả bốn. Cô chị ghen tức, một hôm bỏ
thuốc độc trộn vào cơm dọn cho ăn làm cả bốn người cùng chết một lúc. Hoảng sợ,
cô nhờ một người phu thiêu xác giúp đỡ. Nhưng cũng như các truyện trên, cô chị
lúc đầu đưa ra một cái xác thuê một số tiền là hai mươi bạt và dặn phải đốt kỹ
kẻo ma lại lộn về. Thế rồi, khi người phu thiêu xong cái xác thứ nhất, cô lại đẩy
ra cái xác thứ hai, và cứ thế lần lượt đẩy ra đến cái xác thứ tư. Người phu
thiêu bực mình sẵn, khi đốt xong xác thứ tư, gặp một người đầu trọc đi qua. -
"Mày đi đâu?", hắn hỏi. Người kia đáp: - "Đi chợ" - "Đừng
hòng nói dối. Tao đốt mày bốn lần rồi mà mày còn cứ về quấy
mãi". Cũng như truyện vừa kể, hắn nói rồi bèn kéo người kia vào đống lửa, nhưng
y chống lại kịch liệt, cuối cùng cả hai đều chết.
Người Lào còn có một truyện Bốn
nhà sư, nhưng lại thuộc nhóm truyện phân xử, có kết thúc khác với truyện vừa
kể:
Một người trèo cây xoài hái quả, mất thăng
bằng bị ngã, cũng níu được một nhánh treo tòn ten trên đường đi. Cũng có một
người nài cưỡi voi đi qua Người kia xin giúp, hứa trả một trăm đồng vàng. Nài
ta cũng đứng dậy giơ tay đỡ, nhưng voi cứ trớn voi đi, làm cho nài phải
nắm lấy chân người kia và cả hai đành treo tòn ten. Sau đó thấy một
người thợ săn đi qua, nài ta xin biếu một trăm đồng vàng nhờ cứu hộ. Người thợ sẵn cuối
cùng giúp được hai gã khỏi nguy, không có chuyện chết chóc như các truyện trên.
Nhưng tiếp đến là một cuộc cãi lộn nổ
ra giữa hai người về số tiền đã hứa. Việc đưa lên vua Muyn-la Tan-tai. Vua xử
cho người nài phải trả hai phần ba số tiền với lý do là chẳng những nó phải hàm
ơn người thợ săn mà còn hàm ơn người hái xoài vì nếu không cơ hai cánh tay lực
sĩ của người sau thì nó không tránh khỏi chết.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment