Vào thời ấy,
giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi hành nhiều
điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ, ở vùng
Lam-sơn nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non
yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác, Thấy vậy, đức Long quân quyết định
cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc.
Hồi ấy ở
Thanh-hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ. Thận thả
lưới ở một bến vắng như thường. Tự nhiên trong một lần kéo lưới, chàng thấy
nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay bắt cá.
Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước rồi lại thả câu ở
một chỗ khác.
Lần thứ hai
cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào
lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba vẫn là thanh sắt ấy
mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa lại nhìn xem. Bỗng chàng reo
lên một mình:
- Ha ha! Một
lưỡi gươm!
Thận về sau
gia nhập quân đoàn khởi nghĩa Lam-sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử ở nơi
trận mạc để diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy
tòng đến nhà Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở
một xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và nhận ra chữ "Thuận
Thiên" khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người đều không biết đó là báu
vật.
Một hôm bị
giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một
khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó
là cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lơi rút lấy
chuôi gươm giắt vào lưng.
Ba ngày sau,
Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi vào với chuôi
thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Lê Lợi bèn kể lại câu chuyện. Mọi người nghe
xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với chủ tướng:
- Đây là thần
có ý phó thác cho "minh công" làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem
xương da của mình theo "minh công" và thanh gươm thần này để báo đền
xã tắc!
Từ đó khí thế
của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành trên
mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía. Chẳng mấy chốc tiếng tăm của quân
Lam-sơn lan khắp nơi. Họ không phải trốn tránh trong rừng nữa mà xông xáo đi
tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương
thực của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh
tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước.
Sau khi đuổi
giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị thiên tử -
cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả-vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long quân
sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì
tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh
vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng
đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía
thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói:
- Bệ hạ hoàn
gươm cho Long quân!
Nghe nói thế
nhà vua bỗng hiểu ra bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát thanh gươm thần
rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy
ngang lưỡi. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le
lói dưới mặt nước hồ xanh.
Khi những
chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay cho họ
biết:
- Đức Long
quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh
bình, Người sai rùa lấy lại.
Và từ đó, hồ
bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn-kiếm.
KHẢO DỊ
Người Thượng
ở Tây-nguyên lưu truyền khá nhiều truyện về gươm thần. Tựu trung có bốn truyện
có phần nào giống với truyện trên.
1. Trong một
chuyến đi chơi xa, Po-thê bị bão đắm thuyền, may giạt vào một hòn đảo khỏi
chết. Trên đảo có một cây sung (ha-ra), thường vẫn có một đàn lợn từ biển xa
đến ăn quả rụng. Đàn lợn đi trên mặt biển dễ dàng nhờ có một viên đá thần
(a-tao) do con lợn chúa đàn ngậm ở mồm. Nhờ có Pơ-tao O-la (vua Lười) mách cho
việc đó. Pô-thê tìm cách chiếm lấy viên đá thần, khi con lợn chúa đàn đặt đá
xuống gốc cây để ăn. Được đá thần, Pô-thê trở về đất liền gặp một chàng trai có
quả cây thần (pô-quy) có thể làm ra mưa gió. Sau đó lại gặp một người khác có
sợi dây (tơ-lây ca-a-san) gọi thì nó trói người và một cái gậy (a-cai-tha) gọi
thì nó đánh người. Lại gặp một người khác có hòn đá (pôn-rô-tan pôn-rơ-lo) có
thể hóa thành ngàn quân và một cái roi mây (a-tơ-rê-nông) có thể làm cho trời
đất mù mịt tối tăm. Pô-thê bèn kết thân với người ấy.
Sau đó, họ
đến bờ một con sông lớn. Ở đây có đủ mặt vua các dân tộc như: Chàm, Khơ-me
(Khmer), Việt-nam, Lào, Ê-đê, Ja-rai (Djarai).v.v... Họ đang bận lặn xuống nước
để mò một thanh gươm thần. Gươm ấy từ trên trời rơi xuống, đến đâu sáng chói
khắp cả bầu trời tới đó. Lúc ấy tuy gươm còn nằm trong vỏ nhưng mà ánh sáng của
nó vẫn sáng rực đáy sông. Tuy lặn giỏi, nhưng đáy sông sâu thành vực, họ chỉ
lặn xuống nước được một lúc rồi lại phải lên ngay, vì thế nhiều người lên tay
không. Về sau chỉ có vua nước Chàm chiếm được lưỡi gươm đưa lên mặt nước.
Nhưng vua
Chàm vừa lên tới bờ thì Pô-thê đã nhanh tay cướp lấy gươm thần trao cho vua
Ja-rai. Giữa lúc đó thì vua Khơ-me cũng mò được vỏ gươm đưa về nước họ. Cuộc mò
gươm đến đấy là kết liễu.
Tức mình vì
mất gươm, người Chàm bèn gây một tranh dữ dội với người Ja-rai bao nhiêu năm
tháng. Họ kéo quân đến nước Ja-rai phá làng mạc, giết người, cướp của. Pô-thê
nhờ có hòn đá, quả cây, sợi dây và cái gậy có phép màu nhiệm chiếm được trong
lúc đi đường, nên đủ sức giúp người Ja-rai chống chọi lại với địch thủ. Nhưng
phép thần của người Chàm cũng rất cao cường. Họ làm cho cuộc chiến tranh ngày
càng kịch liệt. Cả hai bên đều chưa phân thắng bại.
Pô-thê bèn
sai giết một con trâu trắng và một con trâu đen làm lễ cúng lưỡi gươm thần rồi
nói: "Hỡi gươm thiêng! Hãy tỏ sự linh dị ra để theo về với một bên cho dứt
khoát!". Đoạn cầm gươm thần vào tay. Pô-thê xông vào giữa quân Chàm. Lưỡi
gươm tự nhiên khi phun ra lửa, khi dâng đầy nước, làm cho người Chàm hoặc bị
chết cháy hoặc bị chết đuối không sao kể xiết. Pô-thê lại dùng roi làm phép làm
cho trời đất tối tăm mù mịt khiến người Chàm chả biết đường nào mà trốn.
Sau khi trao
lưỡi gươm thần cho vua Lửa (Li Pa-tao)1 Pô-thê ra đi, không quên dặn người
Ja-rai phải luôn luôn kết hiếu với người Khơ-me là kẻ được trời giao cho nhiệm
vụ giữ vỏ gươm thần.
2. Truyện thứ
hai của người Ja-rai (Djarai):
Có một vị
thần ở trên trời xuống trần, ngồi ở một gò đất gần đường qua lại. Có một gia
đình đi qua. Thần nhìn trừng trừng vào một đứa trẻ làm cho nó khóc mãi, ai dỗ
cũng không nín. Bố mẹ đứa bé cầu xin thần làm cho nó nín. Thần đòi một số sắt,
bố mẹ lấy ra cho. Đứa bé quả nín. Một số gia đình khác đi qua gò, việc cũng
diễn ra như vậy. Thế là thần đủ sắt rèn một cây gươm. Nhưng khi người thợ rèn
rèn xong gươm không chịu nguội. Người ấy bèn vứt xuống sông Xê-xan gần thác
Y-a-li.
Ít lâu sau có
một người đi câu câu được một con cua, càng cua có cắp một lưỡi gươm. Khi sắp
sửa lấy thì cua thả ra, lưỡi gươm lại rơi xuống nước. Các làng xa gần nghe tin
này đua nhau tới lặn để mò gươm. Một người tìm được, đó là người Ja-rai. Vỏ
gươm do người Việt chiếm (có người nói về tay người Lào).
Truyện trên
dường như là phần đầu của một truyện khác, nội dung đại lược như sau:
Một lưỡi gươm
thần do vua Chàm lặn lấy được từ dưới nước lên, giao cho vua Ja-rai vì vua
Ja-rai là em của vua Chàm. Lưỡi gươm chỉ vào giặc, giặc tan, chỉ vào lụt, lụt
cạn, chỉ vào trời hạn thì tự dưng có mưa. Trừ vua Lửa ra, người nào nhìn vào
gươm cũng sẽ bị tan xương nát thịt. Cây gươm thần được lưu truyền mãi và đã
nhiều lần cứu vớt người Ja-rai ra khỏi vùng thiên tai nhân họa cho tới đời ông
Tú, một trong những vua Lửa. Trong khi ông đưa gươm ra chống giặc thì bất tình
lình lưỡi gươm tự lìa khỏi chuôi và văng xuống sông. Lưỡi gươm trôi về miền
xuôi, người Việt giữ được. Giữa lúc đó thì giặc xâm lăng tới. Không có gươm
thần, người Ja-lai đành chịu làm tôi cho giặc.
Nguồn:
“Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – Nguyễn Đổng Chi"
Xem thêm các truyện khác tại đây:
Truyện 183. Sự tích Hồ Gươm
Comments
Post a Comment