Vào thời nhà Trần, ở
một làng nọ bây giờ thuộc về Nam-định có một em bé tên là Hiền. Hiền được
cha mẹ cạo đầu làm tiểu, cho ở với một ông sư trên chùa. Hàng ngày,
Hiền phải hầu hạ sư, quét dọn chùa và làm các công việc vặt rồi mới
được sư dạy cho học. Thế nhưng Hiền học một biết mười, chả mấy chốc đã nổi tiếng
thần đồng.
Một hôm, Hiền quét
chùa, nhân đề nghịch vào lưng một pho tượng mấy chữ "đày ba
ngàn dặm''. Đêm ấy hòa thượng trụ trì nằm mộng thấy một vị tôn giả đến từ giã
mình, bảo rằng có việc phải đi xa. Tỉnh dậy hòa thượng trong bụng lấy làm phân
vân, khi nhìn thấy lưng tượng Phật có mấy chữ Hán, đoán biết là chữ của
Hiền, vội quát bắt phải lấy nước rửa ngay. Đêm hôm ấy hòa thượng lại mộng thấy
vị tôn giả tới cảm ơn mình. Từ đấy cả chùa đều đoán Hiền sẽ làm nên sự nghiệp
hơn người.
Năm 12 tuổi, Hiền đi
thi và đậu luôn Trạng nguyên. Khi Hiền vào bái mạng trước sân rồng, vua thấy Trạng
bé loắt choắt trong bộ áo mũ quá khổ, bèn phán hỏi: "Trạng học với
ai?"
Hiền đáp ngay: "Tâu
bệ hạ, tôi lúc nhỏ ờ chùa không học với ai cả, chỉ khi nào không hiểu mới hỏi
nhà sư một vài chữ mà thôi."
Vua thấy Trạng đối
đáp cộc lốc, cho là trẻ con chưa biết lễ phép bên cho Trạng về nhà học lễ phép
trong ba năm, sẽ lại cho làm quan.
Hồi ấy có sứ nhà
Nguyên đưa sang ta một câu đố để thử xem nước Nam có nhân tài chăng. Triều đình
nhà Trần mở quốc thư ra chỉ thấy có bốn câu thơ chữ Hán:
Lưỡng nhật bình đầu
nhật,
Tứ sơn điên đảo sơn,
Lưỡng vương tranh nhất
quốc,
Tứ khẩu tung hoành
gian
Cả vua lẫn quan đều
ngẩn ra, không biết làm sao mà đoán được. Mấy ông cụ già trong Viện Hàn lâm,
trong Quốc tử giám vắt óc suy nghĩ nhưng lâu lắm vẫn không tìm được câu trả lời.
Mãi về sau có người nhớ đến Trạng Hiền, vua vội sai một viên quan văn đi mời ngay
Trạng về triều để may ra có thể giải quyết điều bối rối cho cả triều thần.
Viên quan không quản
ngày đêm, phi ngựa nước đại tìm về làng Trạng, thấy một lũ trẻ đang đùa nghịch ở
gốc đa đầu làng, quan thử ra một câu đối để dò xem Trạng có mặt trong
đám ấy chăng: - Tự (字) là
chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là
con: con ai con ấy?
Hiền tay vẫn chơi
đùa, miệng đáp lại ngay: - Vu (于) là
chưng, chặt ngang lưng, chữ đinh (丁) là
đứa: đứa nào đứa này.
Đáp đoạn, bỏ chạy về
nhà. Khi viên quan tìm được vào nhà thì thấy Hiền đang đun bếp. Hắn lại ra một
câu đối: " Ngô văn quân tử viễn bào trù, hà tu mị táo (Tôi
nghe người quân tử xa chỗ bếp núc, sao lại nịnh ông Bếp)."
Hiền đối đáp lại: "Ngã
bản hữu quan cư đỉnh nại, khả tạm điều canh (Ta vốn ở ngôi khanh tướng
nhưng nay tạm nêm canh)."
Biết đích là Trạng,
viên quan đưa chiếu chỉ của nhà vua, mời Trạng về triều để hỏi một việc quan trọng.
Nhưng Hiền lắc đầu nói: - "Trước đây vua bảo ta không biết lễ phép, nhưng
chính vua không biết lễ phép nữa là ai". Nói rồi nhất định không chịu đi.
Về sau vua phải cho
quân gia mang cờ quạt võng lọng đến đón Hiền vào triều. Trước mặt sứ thần của một
cường quốc, ông trạng nhỏ tuổi ấy cầm cục than viết ra một chữ "điền"
(田) giữa sân rồng. Thấy giải đáp đúng, sứ thần lặng lẽ
rút lui. Vua và đình thần thở dài khoan khoái. Về sau, vua ban thưởng cho Trạng
rất hậu và tuy Trạng còn ít tuổi cũng phong chức thượng thư.
Hai mặt trời bằng đầu
nhau (đồng thời có nghĩa là có hai chữ nhật # ). Bốn hòn núi nghiêng
ngả (tức là có bốn chữ sơn # ).
Hai vua tranh một nước
(tức là có hai chữ vương # ).
Bốn miệng ngang dọc
trong khoảng đó (tức là có bốn chữ khẩu # ).
Hết.
Xem thêm các truyện
khác tại đây:
Truyện 64. Trạng Hiền
-----