Ngày xưa có một anh
học trò, con một nhà phú hộ, được nuông chiều và chăm chút rất mực. Năm hai
mươi tuổi, cha mẹ lấy vợ cho. Vợ chàng là một người có nhan sắc lại
đoan chính. Hai người rất yêu nhau. Lấy vợ được nửa năm, chàng được lệnh
cha mẹ bảo lên học với cụ nghè trên tỉnh. Chàng đưa theo một người
lão bộc để lo cơm nước và hầu hạ. Vì đường sá cách trở, lại vì bài vở học tập
ngày một nhiều, nên đã nửa năm, chàng chẳng có dịp nào về thăm vợ cả.
Một hôm, vào khoảng
nửa đêm, người vợ đang ngủ bỗng tỉnh dậy, thấy chồng thình lình bước vào buồng.
Nàng vừa mừng vừa ngạc nhiên, hỏi: - "Anh về lúc nào?". Đáp: -
"Vừa về xong". - "Sao anh không thức thầy mẹ dậy chào hỏi trò
chuyện rồi có ăn cơm để em đi thổi?"
Chồng khoát tay ngăn
lại mà rằng: - Chớ! Chớ! Ta nhớ nàng quá lắm. Từ lâu, muốn về, chỉ sợ
thầy mẹ mắng chết. Hôm nay lén về đây một chút rồi đến gà gáy lại đi. Nàng chớ
thức giấc thầy mẹ dậy làm gì. Còn cơm thì ta đã ăn no ở chợ rồi.
Nói rồi tắt đèn lên
giường. Vợ tin là thực, không căn vặn gì cả.
Đêm hôm sau, thấy chồng
lại mò về, vợ không ngăn được mối nghi ngờ bèn gặng hỏi: - Nơi anh học
cách nhà đến hai ngày đường, sao anh lại về luôn được như thế?
Đáp: - Ta
vì nhớ nàng nên đã giấu thầy mẹ xin về học với cụ huấn Lê cách đây chừng mười dặm
để tiện vài ngày về với nàng một lần. Nàng cứ giả cách coi như không biết gì,
nhất thiết chớ hở cho ai hay.
Từ đó, chồng cứ vài
ba ngày lại về một lần. Vợ vì yêu chồng nên kín tiếng. Vì thế trong nhà ngoài
ngõ chả một ai biết cả. Cứ như thế được nửa năm. Bố mẹ chồng
thấy con dâu ngày một xanh xao vàng vọt, cho là vì nhớ chồng mà như
thế nên một hôm viết thư bảo con trai xin phép về thăm nhà.
Thấy chồng về, vợ
coi là chuyện rất thường. Trái lại chồng thì rất vồn vã, nhất là khi vào phòng
riêng, chồng nói chuyện rất nhiều, kể lể nỗi niềm nhớ nhung mong mỏi ra làm
sao; khi được phép thầy về thì vui sướng hồi hộp như thế nào, v.v... Không thấy
vợ nói năng gì chồng tưởng là vợ giận nên lại cố dùng lời dịu ngọt mơn trớn vợ. Vợ vẫn
cúi đầu im lặng. Chồng quay ra làm mặt giận, nằm day vào vách. Bấy giờ vợ mới
lên tiếng: - Anh làm như anh cả đời mới về một lần. Đóng trò với thầy mẹ chứ có phải đóng
trò với em đâu?
Đến lượt chồng ngạc
nhiên, ngồi nhỏm dậy, hỏi dồn một hồi: - Thế nào? Thế nào? Nói mau!
Nói mau!
Vợ bắt đầu cho chồng
biết mọi việc từ nửa năm lại đây và nói: - Con người ở cổ có một nốt
ruồi đỏ, hai tai xâu lỗ, và một cái sẹo giữa trán nếu không phải anh thì còn ai nữa.
Nghe nói, chồng biết
là có sự lộn sòng, liền ôm đầu kêu khóc rất thảm thiết. Bố mẹ và người
nhà chạy vào hỏi chuyện. Sau khi nghe chồng kể rõ sự tình, vợ mới biết là trong
nửa năm nay đã ăn nằm với một người lạ đội lốt chồng mình. Lại đến lượt vợ ôm đầu
kêu khóc và toan sự đập đầu vào cột. Tất cả mọi người phải xúm lại, hết
lời khuyên can dỗ dành mới làm dịu được cơn sóng gió.
Sau đó mấy ngày, chồng
lại cùng lão bộc lên trường, vợ đã thôi ý định tự tử, còn bố chồng thì xin mấy
đạo bùa về dán ở nhà. Ông dặn con dâu hễ thấy có người vào, bất kể ai, cứ nắm lấy
kêu lên; cả bọn con hầu đầy tớ đã chực sẵn hễ nghe tiếng kêu sẽ từ bốn phía
xông vào, kẻ gian dù có chạy đường trời cũng không thoát.
Mấy ngày yên lặng chả
thấy có gì. Bỗng một đêm nọ nghe trong buồng, có tiếng hô hoán, cả nhà nhanh
chân chạy ùa vào thì thấy người vợ đang nắm lấy tóc một người, miệng kêu la
không ngớt. Họ xông lại trói thủ phạm vào cột nhà và toan nện cho một trận
nhưng khi ông bố nhìn kỹ vào mặt thì lạ thay, rõ ràng không phải là
ai xa lạ mà từ đỉnh đầu đến gót chân chính là đứa con yêu quý của ông. Đến nỗi
bà mẹ khi thấy kẻ gian thì khóc òa lên và một hai bắt phải cởi trói
ngay cho con mình.
Bấy giờ cả xóm đó tới
xem rất đông, không một ai làm sao mà phân biệt nổi. Nhiều người
nói: - Thôi rồi, ông lại bắt lầm lấy con ông rồi!
Mấy cụ già bảo:- Chi
bằng cho người cấp tốc đi gọi con trai trên tỉnh về đây, lúc ấy muốn đoán định
ra sao hãy hay.
Đến ngày thứ hai,
người con ở nhà trọ tiếp được tin, đi suốt đêm về đến nhà. Tất cả mọi người
nhìn lại thì lạ lùng thay, "tuy hai mà một, tuy một mà
hai". Họ giống nhau đến nỗi cuối cùng tất cả mọi người không biết ai là thực,
ai là giả nữa. Vì thế, họ đành phải trói cả hai lại, đưa lên trình huyện.
Quan huyện chả biết làm sao mà phân xử, liền sai giải luôn lên tỉnh. Quan tỉnh
sau mấy ngày tra khảo cũng không tìm ra được manh mối gì, mới đệ vụ án về cho
vua.
Bấy giờ nhà vua đang
trị vì là một tay xử kiện giỏi. Hoàng đế đã từng tìm ra được manh mối nhiều vụ
án rất oái oăm. Khi thấy giải hai người đến trước sân rồng, trước hết, vua sai
vệ sĩ lột hết áo quần của họ ra. Sau khi khám nghiệm, vua quan đều lấy làm kinh
dị là không những nét mặt, hình dạng, ngay đến nốt đen, nốt đỏ, những chỗ hiểm
trong người cũng đều giống như như rập khuôn vậy. Vua ngoảnh bảo các quan đại thần: -
Đích là trong này có một con ma. Nếu là người thì đâu thể giống nhau
thần dị như thế.
Một viên quan tâu
lên: - Tôi nghe loài ma quỷ là vật vô hình, ánh sáng mặt trời
có thể xuyên qua không để lại bóng. Xin bệ hạ cho đưa chúng nó ra giữa nắng xem
đứa nào không có bóng là chính thị.
Lời tâu ấy được đem
thi hành ngay nhưng không có kết quả, vì khi có hai vừa bước ra ngoài trời,
bóng của họ đã in rõ trên nền gạch.
Cuộc hỏi cung bắt đầu.
Hai người được đưa ra hai nơi tra hỏi cặn kẽ từ cái tên cúng cơm đến những chuyện
rất vụn vặt. Nhưng đọc lại hồ sơ thì vua lại càng ngạc nhiên thấy rằng cả hai
bên khai đúng như nhau, không sai một ý. Nhà vua vò đầu suy nghĩ. Cả
triều đình bó tay không tìm ra được một phương kế nào nữa. Cuối cùng, vua xa
giá đến đền Phù Đổng đốt hương cầu thần giúp đỡ. Thần ứng đồng lên nói:
- Nó là một con
chuột già sống lâu năm thành tinh, bây giờ lửa nước đồng sắt không làm hại được,
bùa chú đối với nó cũng mất linh nghiệm. Chỉ có cách là lên thiên
đình mượn Ngọc Hoàng thượng đế viên ngọc mắt mèo, đưa ra, nó sẽ hiện nguyên
hình. Nhưng nay trên thiên đình bận nhiều việc nên khó lòng mượn được. Tôi sẽ
vì bệ hạ tử ra tay một phen. Trước hết đem hai đạo bùa dán vào lưng để nó không
thể trốn được.
Tự nhiên giữa không
trung bay xuống hai đạo bùa rơi vào tay vua. Khi xa giá về cung, vua sai thị vệ
dán ngay vào lưng hai người và bắt họ ngoảnh lưng vào nhau trước sân rồng. Tự
nhiên thấy có một người cố sức giãy giụa nhưng dường như bị trói chặt không sao
cựa nổi. Bỗng chốc mây kéo mù mịt rồi tiếp theo là tiếng sét nổ vang
trời. Khi trời đã quang đãng lại, người ta thấy giữa sân chỉ còn có một người,
bên cạnh đấy là một con chuột khổng lồ, lông lá xù xì có năm sắc, râu trắng như
tuyết, nằm chết ngay đơ không động cựa.
Vụ án nhờ thế được tỏ.
Vua sai đốt xác con tinh thành than đem vứt xuống sông. Còn con dâu nhà phú hộ
mãi đến hơn một năm mới trừ được hết độc.
Hết.
KHẢO DỊ
Người Nghệ-an có
truyện Tại sao gọi chuột là ông cống? là một dị bản của truyện trên:
Ngày xưa có một nhà
nọ nuôi con chuột đực. Con chuột này sống ngoài một trăm năm, trở thành yêu, có
nhiều phép biến hóa, có thể biến thành người được, nó lại thông thạo mọi việc
trong nhà.Sau đó, chủ nhà đỗ hương cống, đi làm quan xa lâu ngày không về. Cũng
như truyện ở trên, ở đây chuột hóa thành người giống ông cống như tạc, hắn nói
dối với người nhà rằng mình mới được phép vua về nhà nghỉ ít lâu. Vợ thấy chồng
về thì vui mừng, hai bên ăn ở với nhau hơn một năm, sinh được một đứa con gái.
Một hôm, ông chồng
thật về, cả nhà đều ngạc nhiên, nhìn lại cả hai thì giống nhau như hai giọt nước,
hỏi đến mọi việc từ kế tự cho đến của chìm của nổi, cả hai đều nói rành mạch,
giống nhau không sai một tý gì.
Việc lên quan. Quan
hỏi dân làng xem có ai biết được việc riêng của nhà ấy như thế nào thì cho khai
ra. Có một người khai rằng: nhà ấy ba đời không nuôi mèo, chỉ nuôi một con chuột
đực giữ nhà, những con chuột khác đều không dám đến cắn phá. Hỏi người nhà thì
biết rằng gần đây không thấy con chuột ấy nữa, không biết nó đi đâu.
Quan bèn đoán rằng:
trong hai ông cống này tất có một người do chuột hóa ra. Mới mời một thầy phù
thủy nổi tiếng đến. Thầy bắt một tay quyết "linh miêu", lại dọc một
đường chú "bổ thử". Lập tức ông cống giả cùng đứa con gái tự nhiên biến
thành chuột, vỡ mật ra mà chết. Vụ rắc rối của nhà ấy nhờ thế được tỏ rõ. Ngày
nay, người ta gọi chuột là "ông cống"chính là vì thế.
Người Nghệ-an còn có
một truyện khác kể rằng:
Có một con chuột ở
trên núi, sống lâu năm thành yêu, thường hiện hình làm người, đi hiếp đàn bà.
Trong làng có người học trò đi thi chưa về. Chuột bèn hóa thành anh học trò, mặt
mũi, quần áo, lời ăn tiếng nói y hệt. Được năm ngày anh học trò thật trở về, ban
đêm gọi cổng. Vợ anh ở trong nói vọng ra: "Chồng ta đi thi không đỗ đã về
đây rồi, không biết ai gọi gì ngoài ấy?". Anh học trò phá cổng vào. Anh học
học trò giả cũng mắng. - "Tao đã về đây rồi không biết đứa nào dám mạo nhận".
Hai bên đánh nhau. Việc đưa lên quan. Nhờ có một pháp sư cao tay lập đàn cáo với
Trời. Trời cho một con "kim miêu" xuống, bắt yêu chuột hiện nguyên hình.
Về những truyện có đề
tài xử án trong đó có con ma biến thành hình dạng người (chồng hoặc vợ) để ăn nằm
với người, các dân tộc gần ta cũng có. Truyện của người Khơ-me (Khmer) Thỏ
làm quan tòa lừa ma:
Một anh chàng vừa mới
lấy vợ thì bị quan bắt đi lính theo vua đánh giặc. Anh buồn quá ra đi đến một
cây đa ngồi khóc, khóc đoạn bỏ về, rồi sợ lệnh quan lại phải ra đi, cứ dùng dằng
như thế đến mấy lần. Cuối cùng anh đành phải đi. Trên cây đa có con ma thấy
vợ anh đẹp bèn hóa thành anh chàng đêm lại mò vào. Người đàn bà hỏi: -
"Sao lại về?". - "Quan bảo ta không phải ra trận". Hai bên
ăn ở với nhau ít lâu thì cuộc chiến tranh kết thúc, người chồng thật trở về. Vợ
kinh ngạc không biết trong hai người ai là chồng thật của mình. Hai người đàn
ông tranh cãi. Việc đưa lên quan. Quan tòa bối rối tra hỏi người vợ, người vợ
cũng không biết sao mà khai. Án đành xếp lại. Người chồng thật buồn
quá bỏ đi lang thang gặp một con thỏ kể chuyện cho thỏ nghe. "Đừng lo, thỏ
bảo, để tôi sẽ giúp". Bèn đến bảo quan tòa. "Vụ án này chưa xong. Hãy
lấy một cái lọ bảo ai chui vào được thì người ấy là chồng". Nghe quan phán
thế, người chồng giả rất vui mừng. "Ta sẽ thắng". Bèn thu mình chui
vào lọ. Thỏ bảo nút chặt lọ lại vứt xuống sông và nói: "Đó là ma, còn
người thật thì không thể chui vào được". Rồi anh chàng dắt vợ về,
còn thỏ thì lại lên rừng2.
Người Lào cũng có một
truyện như truyện vừa kể:
Chuột kia mày ở nơi
nao?
Vàng kia tám nén đưa
tao chớ chầy.
Ơn vua tao sống về
đây
Phong chức cho mày
hương cống chuột kia...
Một người kêu kiện với
quan về một con ma (phi) hóa thành hình dạng giống người ấy, tranh mất vợ. Quan
tòa phán rằng vợ sẽ về với người nào chui được vào một cái lỗ nhỏ (có người kể
là cái ống tre). Trong khi chồng thật khóc lóc thì con ma vội vã hóa
phép thu nhỏ lại chui vào. Quan có đủ bằng cớ để trả người vợ cho người chồng thật1.
Cả hai truyện có lẽ
xuất phát từ nguồn gốc một truyện của Ấn-độ:
Một người Bà-la-môn
rất nghèo, phải bán xới kiếm ăn để mẹ và vợ ở nhà. Trong khi đó, một hung thần
hóa thành hình dạng người chồng, làm bộ trở về nhà báo hai người đàn bà rằng
mình đã tìm được cách mưu sinh.
Mấy năm sau, người
Bà-la-môn thật về. Việc rắc rối cũng xảy ra như các truyện trên và cuối cùng
cũng đưa lên vua phân xử. Vua xử cho hung thần được kiện. Người Bà-la-môn thật
thất vọng trở về. Qua một cánh đồng, thấy có bầy trẻ chăn bò đang đóng trò vua
quan, người Bà-la-môn khóc lóc xin xét nỗi oan khổ. Đứa trẻ làm vua giả, sau
khi được vua thật đồng ý cho xử vụ này, bèn đưa ra một cái hũ lớn bảo ai là chồng
thật thì chui vào hũ. Trong khi người Bà-la-môn khóc rống lên vì không thể nào
chui vào được thì hung thần thu hình chui vào. Lập tức đứa bé bảo nút hũ lại,
ném vào lửa.
Việt-nam còn có một
truyện xử án, có những tình tiết tương tự với các truyện trên:
Làng Hoàng-đồng,
châu Thoát-lãng (Lạng-sơn) có người đàn ông họ Quách cưới vợ ở một làng khác
cách nửa ngày đường. Ngày cưới, cô dâu ngồi kiệu về. Đến nơi, mở kiệu, người ta
thấy không phải là một mà là hai cô dâu giống nhau như tạc. Việc đưa
lên quan. Quan sai chăng thừng cao quá đầu người, bảo ai nhảy qua được là vợ họ
Quách. Một người nhảy được ngay. Quan sai bắt chém nhưng nó biến mất. Còn người
kia không nhảy được đúng là cô dâu, quan cho về đoàn tụ với chồng.
Một truyện xử án của
Trung-quốc thuộc Bao Công kỳ án, hình tượng dẫu khác nhưng chủ đề thì
tương tự:
Ngày xưa ở
Dương-châu có người học trò nghèo học giỏi là Lưu Chân. Một lần Lưu đi thi
nhưng đến trường thì đã quá muộn. Chàng trọ lại ở chùa Khai Nguyên, hết sạch cả
tiền, đành làm nghề viết thuê chữ thảo kiếm ăn. Vừa gặp thừa tướng họ Kim trọng
tài Lưu, gọi vào phủ dạy cho con cháu. Nhân đó, Lưu được trông thấy con gái thừa
tướng, trong lòng mê mẩn. Hồi ấy, ở đầm Bích-du có con cá chép sống
được ngàn năm thành tinh, có phép biến hóa. Một hôm, cá biến thành người con gái, đi chơi xa, đến sáng không về kịp vội hiện nguyên hình,
nấp vào ao phủ thừa tướng. Cả đêm đêm phun hơi vào khóm mẫu đơn làm cho
hoa mẫu đơn đẹp ra khác thường, khiến con gái con thừa tướng mê mẩn về
hoa, ngày nào cũng ra đó ngắm nghía. Cá thấy Lưu Chân đẹp trai lại đang mê con
gái thừa tướng, liền hóa làm con gái thừa tướng, tìm đến buồng Lưu ân ái.
Được ít lâu, cá rủ
Lưu trốn về quê quán, sống như vợ chồng. Tuy thấy mất Lưu, cả nhà thừa tướng vẫn
không để ý. Nhưng khóm mẫu đơn từ đó chết khô, tiểu thư sinh bệnh. Thừa
tướng sai người nhà đến Dương-châu tìm mua một cây mẫu đơn đẹp đem về trồng.
Người ấy tình cờ vào nhà Lưu. Thấy vợ Lưu, hắn ngạc nhiên ngỡ là tiểu thư, vội
về báo cho thừa tướng biết. Thừa tướng sai thuộc hạ đòi hai vợ chồng Lưu về
kinh. Trông thấy cá, Thừa tướng rất kinh ngạc vì giống con mình như đúc. Hỏi
Lưu thì chàng thú thực là đã cùng tiểu thư dắt nhau đi trốn, nay xin chịu tội.
Thừa tướng nhờ Bao
Công phân xử. Bao Công sai đưa hai người (cá và tiểu thư) vào dinh, lấy kính
chiếu ma soi vào. Một lát sau cá nhả ra một đám khí đen. Khí đen tan thì cả cá
và tiểu thư đều biến mất. Bao Công nhờ Thành hoàng giúp. Thành hoàng lại nhờ
Long quân đóng các cửa biển để tróc nã yêu quái. Cá bị đuổi dữ quá chạy
vào Nam-hải. Bao Công sai yết bảng rao hễ ai biết yêu tinh cá vàng ở đâu sẽ thưởng
năm nghìn quan.
Bấy giờ có ông lão họ
Trịnh bình sinh hay giúp đỡ người, lại có thờ Quan Âm. Một đêm, mộng thấy Quan
Âm nhờ mình sáng ra bờ sông đưa ra mắt Bao Công. Sáng dậy ra bến, chỉ
thấy có một bà cụ già tay cầm giỏ tre. Vào đến phủ Bao Công, bà ta bắt cá trong
giỏ ra tra hỏi. Cá kể sự thật và thú là giấu tiểu thư ở đầm Bích-du. Bao Công
muốn đem cá mổ thịt nhưng bà ta nhận đưa đi "phát lạc", còn
số tiền thưởng xin giao cho ông lão họ Trịnh.
Tìm được tiểu thư
thì nàng đã gần chết. Khi chữa lành, Bao Công xin Thừa tướng gả cho Lưu Chân
làm vợ.
Trung-quốc còn có
hai truyện tuy không phải thuộc truyện xử án, và tuy cấu trúc và hình tượng có
khác nhau nhưng đều cùng một chủ đề với truyện trên:
1. Dương Hùng mồ côi
bố được cậu là phó tướng họ Chu trấn ở Hà-châu nuôi. Chu rất yêu chàng vì thông
minh. Chu có con gái cùng trạc tuổi với Dương, tuy cho ăn ở chung, nhưng gia
pháp rất nghiêm nên không xảy ra việc gì. Bỗng một hôm, Dương đang dạo mát tự
nhiên thấy cô gái họ Chu đi theo mình. Hai người từ đấy yêu nhau, hẹn hò tình tự
luôn. Mụ quản gia rình biết, bèn báo với chủ. Họ Chu hỏi vợ, vợ nói: "Con
gái đêm nào mà chả đi ngủ với tôi". Họ Chu lấy làm khó hiểu, nhưng cũng kiếm
cớ đuổi Dương ra khỏi cửa.
Lang thang khắp nơi,
cuối cùng chàng phải ở nhờ một ngôi chùa ở Lan-châu. Một hôm, thấy có kiệu dừng
ở cửa, nhìn ra mới biết là người yêu đến cùng với nhiều đồ đạc quý giá. Cô gái
họ Chu nói mình đi với chú ruột mới được thăng chức thủ bị ở Lan-châu. Dương đến
chào người chú yêu, người này đến đáp lễ. Khi thấy cháu ăn ở với Dương như vợ
chồng thì ông chú kinh ngạc vì mình chưa nghe nói tới cưới hỏi bao giờ. Mấy
ngày sau nhân có việc, ông chú về Hà-châu kể lại với người anh. Vợ chồng họ Chu
nói: "Con gái chúng tôi chưa bao giờ ra khỏi nhà". Cuối cùng họ cũng
bàn nhau: nay đã có việc như thế thì con gái không khỏi mang tiếng, chi bằng gả
quách cho Dương. Bèn làm theo lời bàn. Khi đưa dâu về thì một người hóa hai.
Dương đang hoang mang thì một trong hai cô bước ra nói: "Tôi là
hồ ly, vì việc báo ân mà làm như thế, chàng đừng kinh sợ. Xưa người ông chàng
đi săn, tôi bị một mũi tên tưởng chết, nhờ ông chàng bó cho rồi thả ra. Tôi muốn
trả ơn mà chưa có dịp. Gần đây biết chàng yêu cô Chu mà không có cách
gì. Tôi làm thế này để thay cho việc mai mối. Nay việc đã
xong tôi đến chào chàng".
2. Đời Tấn ở
Ngô-hưng có một người có hai con. Một hôm, hai người con đi làm đồng, tự nhiên
thấy người bố ở đâu đến đánh đập mình không có lý do, rồi đi. Họ nói với mẹ. Mẹ
trách bố, bố lấy làm lạ nói: "Ta chưa hề ra đồng. Chắc đó là quỷ
lấy hình dạng ta. Nếu nó đến nữa thì cho các con cứ giết đi vô tội vạ".
Sáng mai, hai con lại ra đồng, gậy gộc cầm tay. Hôm ấy họ về chậm. Không thấy
con về, người bố đi đón, con tưởng quỷ bèn giết chết, rồi chôn ngay tại chỗ. Quỷ
thấy vậy bèn hóa thành bố về nói với mẹ. "Thế là ổn, bọn chúng đã giết chết
con quỷ". Tối lại, hai đứa con về, cả nhà chuyện trò vui mừng như đạt một
thắng lợi.
Vài năm sau, có một
pháp sư đi qua ghé vào nói với hai người con: - "Gia đình các anh đang có
tai họa". Con về kể lại với bố. Bố thét lên: - "Giết chết nó đi!".
Hai người bảo pháp
sư đi ngay kẻo có sự chẳng lành xảy ra. Nhưng pháp sư không đi mà tốc thẳng vào
nhà đọc bài chú. Tự nhiên người bố biến thành một con chồn già nấp dưới giường.
Hai người con biết lần trước mình đã giết mất bố. Bèn cải táng bắt đầu làm ma.
Người Huế cũng có
truyện Tinh con chuột nhưng có nội dung khác hẳn truyện Tinh con
chuột trên kia. Đại khái cái một người đàn bà góa chồng nghèo khổ. Một
hôm, chị gặp một người đàn ông, ăn ở với nhau như vợ chồng.
Nhờ có người chồng
hàng ngày mang thức ăn về nên cuộc sống có phần dễ chịu hơn trước. Nhưng dần dần, xóm giềng nhận thấy thức ăn của mình hay bị mất
trộm. Họ rình đánh kẻ gian. Và khi ông lão, chồng người đàn bà, ngã xuống, thì
hiện nguyên hình là một con chuột lớn.
Một phật thoại, Lô
Chí trưởng giả, có mục đích giáo dục tín đồ, cũng có hình tượng một vị thần hóa
thành người, giống với một vị trưởng giả như đúc, gây rắc rối từ gia đình cho đến
vua quan:
Ngày xưa ở nước Xá-vệ,
có một trưởng giả tên là Lô Chí nổi tiếng giàu có, nhưng cũng nổi tiếng keo kiệt.
Một hôm nhà vua mở hội, mọi người đua nhau ăn uống, đãi khách, vui
chơi theo tục lệ, Lô Chí cũng bỏ ra một số tiền mua thức ăn ngon nhưng sợ phải
đãi khách, nên mang đi một nơi thật xa ăn uống một mình; ăn rồi rượu say hát
múa một mình, tự cho là sướng hơn Đế Thích. Thần Đế Thích hôm ấy đi qua thấy vậy,
mới định tâm cho y một bài học. Bèn nhân khi Lô Chí thật còn vui say ở xa nhà,
hóa thân thành một Lô Chí khác, rồi đi về nhà Lô Chí, gọi vợ con xóm giềng Lô
Chí lại phán rằng trước đây mình bị một con ma "keo kiệt" ám ảnh nên
sinh xấu nết, bòn sẻn với mọi người. Nay mình đã học được phép đuổi
quỷ, nên đã đuổi được nó đi rồi. Đoạn sai người nhà dọn tiệc mời họ hàng thân
thích ăn uống linh đình, và mở kho lấy tiền của ra phát cho mọi người.
Trong khi thiên hạ vây quanh đông đúc để nhận phân phát, thì Lô Chí thật tỉnh
rượu trở về. Thấy có một người giống mình ngồi giữa mẹ và vợ con, Lô Chí hầm hầm
nổi giận, nhưng Đế Thích (Lôi Chí giả) vội chỉ cho người nhà biết đó là con ma
"keo kiệt" bảo đóng cửa không cho vào. Cuối cùng, hai bên tranh cãi kịch
liệt, mọi người không hiểu thế nào cả. Họ đưa nhau lên vua. Vua không xử. Sau
đưa đến Phật, Đế Thích bấy giờ mới hiện nguyên hình và trả
lại của cho Lô Chí.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment