Ngày xưa, một ông
vua nước ngoài có một viên ngọc vô cùng quý giá. Viên ngọc có hai điều lạ: một
là cầm trên tay tưởng chừng rất nhẹ, thế nhưng đặt vào đâu thì ở đấy nặng trĩu;
hai là đêm đến ngọc tỏa ánh sáng rực, dẫu cất chỗ kín thế nào đi nữa, ánh sáng vẫn
cứ lọt ra ngoài. Từ lúc được làm chủ viên ngọc, nhà vua mừng lắm, đêm ngày ôm ấp
không rời.
Nhưng một hôm ngọc
quý bỗng không cánh mà bay. Nhà vua tiếc ngơ tiếc ngẩn, hạ lệnh cho
thần dân khắp hang cùng ngõ hẻm phải hết sức dò tìm, tuy vậy vẫn vô hiệu. Mãi về
sau, vua sai người đem kính thiên lý ra nhìn, thì mới biết ngọc đã
bay về phương Nam. Lập tức vua sai một viên đại thần đem năm trăm quân sĩ ngồi
lên mấy chiếc thuyền lớn, theo hướng Nam mà đi. Lệnh vua truyền thế
nào cũng phải dò tìm bằng được. Sau bao ngày vượt biển tìm tòi, viên đại thần
theo dõi kính thiên lý bỗng nhìn thấy viên ngọc bay vụt vào nước Nam, bèn ra lệnh
cho quân sĩ cứ hướng ấy đuổi theo.
Bấy giờ ở làng Đại-lại,
huyện Gia-bình có một người tên là Điển Chi. Một đêm nọ, ông đang ngồi
chơi ở sân, chợt thấy có ánh sáng lạ bay xuống chiếu sáng cả một khu vườn. Ông
lấy làm kinh ngạc, nhưng cũng đánh bạo chạy tới chỗ ấy tìm xem, không ngờ bắt
được một viên ngọc. Biết đó là của hiếm trên thế gian, ông mừng quá, vội đưa về
nhà cất trong hộp gỗ. Nhưng ông lấy làm lạ khi thấy đêm đến, ánh sáng của viên
ngọc vẫn tỏa sáng khắp nhà. Ông lại cho vào một cái thùng sắt đậy kín, nhưng thùng
sắt cũng không đủ sức che kín ánh sáng chói chang. Sợ ngọc có thể bị lộ và về
tay người khác mất, ông bèn đào hố chôn đi. Nhưng dầu đào sâu chôn chặt
bao nhiêu cũng hoài công vô ích. Đêm đêm, ngọc vẫn phát ra ánh sáng. Sau nhiều
ngày mò mẫm đủ cách, ông mới biết chỉ có bỏ ngọc vào giữa thịt sống thì ánh
sáng của ngọc mới được che kín trọn vẹn. Cuối cùng, ông đánh liều cầm
dao rạch đùi mình nhét ngọc vào rồi khâu lại. Từ đó chân ông đau tê buốt không
đi lại được, nhưng của báu thì hoàn toàn giấu kín không ai biết cả.
Lại nói chuyện quan
quân nước ngoài theo dõi dấu ngọc tới vùng Gia-bình thì bỗng mất hút.
Kính thiên lý cũng không còn tìm ra. Quan đại thần bèn cho quân sĩ vào dò la khắp
miền, nhưng thảy đều vô ích.
- "Hẳn có
người nào ở vùng này bắt được ngọc biết cách dấu vào da thịt nên ngọc không
phát sáng nữa". Viên đại thần nghĩ vậy. Và ông cố moi óc tìm ra một kế để
đưa ngọc về. Ông mới sai quân sĩ dựng rạp trên một hòn đảo giữa sông, rồi giết
bò mổ lợn làm tiệc linh đình. Đoạn nhờ quan huyện ở đây mời tất cả
nam phụ lão ấu các làng tới dự. Mỗi người đến dự tiệc đều phải đi qua một chiếc bè nứa thả nổi trên sông, nối liền với đảo. Ông còn cắt mấy người đứng đón
ở bè nứa, dặn hễ thấy lúc nào có người đi qua, bè chìm thì báo ngay cho ông. Suốt mấy ngày
liền, dân làng các vùng Gia-bình, kể cả dân làng Đại-lại lũ lượt đến ăn tiệc hết
lớp này đến lớp khác, nhưng chẳng một ai có sức nặng làm cho bè chìm. Viên đại
thần vẫn không nản lòng. Ông cố cho hỏi trong trong đám khách dự tiệc các làng
xem may còn sót ai chưa đi chăng. Một người ở làng Đại- lại mách:
- Người làng
tôi thiếu mặt họa chỉ có ông Điển Chi vì ông ta gần đây bị đau chân không đi
đâu được.
Nghe nói thế, viên đại
thần vội sai mấy người lính sắm sửa cáng xá, đến tận nhà ông Điển Chi
dặn họ cố dùng lời nói khéo mời ông đi. Về phần ông Điển Chi, không
biết được mưu sâu nên nghe lời mời, liền vui vẻ lên cáng. Quả nhiên, vì có viên
ngọc nhét trong đùi cáng ông vừa bước lên bè nứa, thì bè tròng trành dữ dội rồi
chìm ngập xuống nước. Thấy vậy, viên đại thần reo lên:
- Ngọc đây rồi!
Ta tìm được ngọc đây rồi!
Không thể giấu được
nữa, ông Điển Chi đành phải thú thực mọi việc. Viên đại thần nói:
- Hoàng đế nước
chúng tôi mất một viên ngọc, hòn ngọc bay sang quý quốc, ông bắt được
ngọc đó là một điều may mắn. Chúng tôi không có ý lấy không của ông. Nhưng để
có ngọc về nộp hoàng đế, mong ông vui lòng đánh đổi hoặc quan tước, hoặc bạc
vàng cho chúng tôi. Ông muốn gì, cũng xin làm cho ông vui lòng.
Thấy bọn quan quân
không có gì ác ý, ông Điển Chi bảo họ:
- Hãy chồng tiền
vác cao bằng đầu người từ chỗ tôi đứng cho tới nơi nào hòn chì của tôi ném ra dừng lại!
Viên đại thần nước
ngoài gật đầu. Cuộc trao đổi giải quyết chóng vánh. Từ đấy, ông Điển Chi trở
nên giàu có, trong nước ít người sánh kịp.
Tin ông Điển Chi bỗng
nhiên giàu bốc lên bay đến kinh đô. Nhà vua bèn cho đòi ông về kinh hỏi chuyện.
Thấy ông tốt số kỳ lạ, vua chọn một công chúa gả cho ông, phong ông làm phò mã.
Hai vợ chồng ông Điển
Chi sống với nhau rất tương đắc. Công chúa chiều chuộng ông rất mực. Ông Điển
Chi những tưởng đời mình không còn gì sung sướng hơn thế nữa.
Nhưng một hôm, một
người bạn nối khố của ông từ phương xa tới thăm. Ông vui vẻ dắt bạn đi khắp nơi
xem tư cơ đồ sộ của mình. Thấy bạn luôn miệng tấm tắc khen ngợi, ông có vẻ đắc
chí:
- Giàu như tôi
mới thật là nhất nước!
Không ngờ câu nói ấy
lọt vào tai công chúa. Không chịu được sự ngạo mạn của chồng, trong một lúc giận
dữ, công chúa vội vàng về mách cha. Nhà vua không ngăn được cơn thịnh nộ, lập tức
cho triệu phò mã về triều và ra lệnh:
- Nhà ngươi tự
khoe mình giàu có nhất nước. Được lắm! Bây giờ ngươi hãy thi với ta đem tiền ra
phát chẩn cho dân. Ta phát ba ngày đầu, ngươi phát ba ngày cuối. Nếu ta không đủ
tiền để phát thì coi như lời ngươi nói đúng, ngươi sẽ không có tội gì cả. Nhưng
nếu ngươi không đủ tiền để phát, thì tức là ngươi đã nói láo, đã khinh mạn
"quan gia", phải phạt tội lột da nhồi trấu để làm gương cho thiên hạ!
Nghe lời truyền dõng
dạc, ông Điển Chi khôn xiết kinh hoàng. Ông sụp xuống dưới chân vua kêu xin tha
tội. Nhưng nét mặt vua thản nhiên như không nghe thấy. Chẳng biết tính sao nữa,
ông đành tuân lời.
Sau những ngày bận rộn
chuyển vận tất cả của cải về kinh đô, ông Điển Chi lại ra mắt vua. Cuộc thi bắt
đầu. Mấy ngày đầu vua phát chẩn, dân chúng chưa mấy ai biết tin nên đến lĩnh chẩn
còn thưa thớt. Cho nên số tiền vua ứng ra vẫn không phát hết. Nhưng đến lượt
ông Điển Chi phát thì khắp nơi dân chúng đã hay tin, nên nô nức tuôn về lĩnh chẩn
ùn ùn. Ông Điển Chi phát mãi, phát mãi, vợi hết cả kho tiền mà vẫn không đủ. Hết
tiền ông lại đem gạo trong kho ra phát, mong có thể cứu được tính mạng. Nhưng
không may cho ông, các kho gạo bắt đầu vơi mà dòng người vẫn tuôn về như nước
chảy. Vì thế ông đành chịu thua cuộc.
Nhà vua vẫn không
chút thương hại chàng rể ngạo mạn. Ông Điển Chi bị quân lính bắt ra lột da nhồi
trấu, đem bêu trước cửa thành. Tất cả tài sản còn lại của ông đều bị sung công.
Thấy chồng bị vua
cha làm tội, công chúa đâm ra hối hận. "Thì ra ta là gái giết chồng"
Câu nói ấy luôn luôn ám ảnh lòng nàng. Rồi một hôm, công chúa giao tất
cả ruộng đất của mình cho dân làng, bỏ đi tu. Ngày nay ở làng Đại-lại vẫn còn
cánh đồng mà công chúa cúng cho dân, người ta gọi đó là cánh đồng Mả, cũng có
người gọi là cánh đồng Ngọc.
Hết.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment