Ngày xửa ngày xưa,
có một người trải đã nhiều kiếp, kiếp nào từ bé đến lớn cũng giữ mình đức hạnh
và thành bậc chân tu. Cứ luân hồi chuyển kiếp như vậy liên tiếp đến chín lần,
nhưng chưa kiếp nào được thành Phật.
Đến kiếp thứ mười,
người này được thác sinh ở nước Cao-ly làm con gái ở một nhà họ Mãng, có tên là
Thị Kính. Nàng có vẻ người đầy đặn, mặt mũi dễ coi, tính tình điềm đạm. Lớn
lên, nàng thờ cha mẹ hết lòng, việc nhà việc cửa chăm lo khá đảm. Khi
đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho một anh chàng học trò họ Sùng tên là
Thiện Sĩ. Cũng giống như nhà vợ, bên nhà chồng cũng chẳng khá giả gì. Thấy chồng
chăm học, không chơi bời, Thị Kính không ao ước gì hơn; nàng càng ra công tần tảo
cho chồng dốc lòng nấu sử sôi kinh.
Một đêm, bên cạnh án
thư, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính cũng ngồi may một bên, hai người chung
nhau một ngọn đèn dầu. Chồng học mãi thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường,
kê đầu lên đầu gối vợ chuyện trò một chốc rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính cố giữ
yên lặng cho chồng yên giấc. Nàng có thì giờ ngắm nghía kỹ khuôn mặt tuấn tú của
chồng. Bỗng nàng nhận ra ở cằm chồng có một cây râu mọc ngược. - "Ồ sao lại
có râu xấu xí thế này. Người ta bảo râu mọc ngược là tướng bạc ác. Ta phải lén
nhổ đi cho chàng mới được!" Nghĩ vậy, sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng
đồ may, Thị Kính liền cầm lấy mở ra định nhổ sợi râu, không ngờ lưỡi dao sáng
loáng vừa đưa đến gần thì Thiện Sĩ cũng vừa chợt tỉnh; trông thấy vợ tay cầm
dao chĩa vào mặt trong lúc mình chợt ngủ quên, Thiện Sĩ nghĩ ngay đến chuyện đen
tối liền vùng dậy nắm lấy cổ tay và la lên:
- Chết thật!
Nàng định cầm dao giết ta lúc đang ngủ ư? Thị Kính đáp:
- Không phải
đâu. Thấy chàng có sợi râu mọc ngược thiếp định tâm nhổ nó đi kẻo trông xấu xí lắm!
Nhưng trong cơn nghi
ngờ và hoảng hốt, chồng nhất định không chịu tin như vậy.
- Thôi thôi! Đừng
khéo chống chế. Làm sao lại có chuyện nhổ râu khi ta đang ngủ. Muốn nhổ thì đợi
ta tỉnh dậy, hoặc ban ngày ban mặt có hơn không?
Giữa lúc ấy, người mẹ
Thiện Sĩ nằm ở buồng bên cạnh nghe tiếng cãi nhau cũng đẩy cửa bước vào. Vừa
nghe con trai kể lại câu chuyện, bà mẹ đã mồm loa mép giải:
- Trời ôi! Con
này to gan thực! Dám đang tay làm những việc tày trời. May mà con ta
tỉnh dậy kịp, không thì còn gì là tính mạng.
Thị Kính nước mắt
giàn giụa cố gắng phân trần:
- Mẹ nghĩ xem,
con có thù vơ oán chạ gì mà phải làm như vậy. Chẳng qua con muốn làm cho chồng
đẹp mặt...
- Rõ ràng mày định
tâm giết chồng, bị bắt hai năm rõ mười mà còn chối leo lẻo.
Người mẹ Thiện
Sĩ vốn chẳng ưa gì nàng dâu nên một mực đổ riệt. Thị Kính thấy giãi
bày mãi không ăn thua, nên ngồi sụp xuống cúi đầu nức nở. Câu chuyện từ bé xé
ra to. Cuối cùng gia đình họ Sùng không muốn con cháu có nòi ác nghiệt, nên Thị
Kính bị đuổi về nhà bố mẹ đẻ.
Buồn chán cho số phận
éo le, một hôm nàng cải trang thành một chàng trai, nhân đêm tối bỏ nhà, khăn
gói ra đi. Nàng đi, đi mãi, cố tìm trú ngụ một nơi cho thật xa quê hương để xóa
bỏ những ký ức đau xót. Sau cùng đến một tỉnh khác, ở đây có chùa Vân, nàng tìm
đến xin gọt đầu quy y. Sư cụ không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt hiệu
là Kính Tâm. Sự đời đã tắt lửa lòng, từ đấy nàng yên tâm bạn cùng kinh kệ.
Nhưng tu hành ở chùa
Vân chưa được bao lâu thì một việc mới lại xảy đến với nàng. Tuy ăn mặc nâu sồng
nhưng vẻ mặt của chú tiểu mới đã làm cho nhiều trái tim của các cô gái làng thổn
thức. Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, những ngày đi lễ chùa thấy
tiểu Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm dấu thầm. Hai ba phen bị khước từ, Thị Mầu
càng say mê, càng cố tìm cách quyến rũ. Sau đó, tuy cá chẳng cắn câu,
nàng vẫn không sao quên được chú tiểu. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư
thông với một người đầy tớ trai trong nhà. Qua nhiều phen đi lại, không ngờ bụng
ngày một lớn. Bị làng phạt vạ, cô gái nghĩ rằng nếu thú thật thì chẳng hay ho
gì, bèn đổ riệt cho tiểu Kính Tâm. Vì thế tiểu Kính Tâm cũng bị làng đòi đến khảo
tra. Nhưng dù bị đánh tơi tả, nàng vẫn không dám nhận liều cũng như không để lộ
mình là gái. Sư cụ chùa Vân thấy tiểu bị đòn đau thì thương tình, kêu xin với
làng nộp vạ, bảo lãnh cho tiểu được tha về. Nhưng sợ miệng thế mai mỉa ô
danh chốn thiền môn, nên sư cũng bắt tiểu phải chụm một cái lều cư ngụ ở phía
ngoài cổng chùa. Nàng cam tâm nhận sự hành hạ này, cắn răng không hề một lời
van xin hay than thở.
Thị Mầu sau đó sinh
được một trai. Đã trót đổ vấy cho tiểu Kính Tâm, nên nàng lại đem đứa con bỏ liều
ở cổng tam quan. Kính Tâm lại thêm một phen bối rối. Nhận lấy đứa bé thì không khác gì một hành động thú tội, mà không nhận thì
làm ngơ sao đành trước một đứa bé vô tội thế kia. Nhưng những tràng khóc oa oa
của đứa trẻ sơ sinh đã khiến nàng mất hết ngại ngần. Lập tức nàng bế đứa bé vào
lều chăm sóc, và từ đó ngày ngày một công việc mới choán hết thì giờ và tâm trí
của nàng: nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm. Mặc cho dân làng kẻ
cười người chê đến rát cả mặt, nàng vẫn âm thầm chịu đựng, tuyệt không có lấy một
lời oán thán. Cứ như thế sau sáu năm, nàng trông nom con người như
con đẻ. Trong khi đứa bé ngày một sởn sơ khôn lớn, thì sức của nàng trái lại
ngày một mỏi mòn kiệt quệ. Một hôm, biết mình không thể sống được nữa, tiểu
Kính Tâm bèn viết một phong thư để lại cho bố mẹ đẻ, trong đó nàng thuật lại đầu
đuôi nỗi mình nhẫn nhục bấy chầy. Lại dặn dò đứa bé sau khi mình chết thì trao
thư lại cho sư cụ trên chùa. Khi khâm liệm, mọi người mới hay tiểu Kính Tâm là
đàn bà, và ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng của nàng từ bấy đến nay quả
là cùng cực. Để tỏ lòng hối hận, sư cụ chùa Vân bên cho lập một đàn chay cầu cho
nàng được siêu sinh tịnh độ. Dân làng còn bắt Thị Mầu phải để tang và bắt phải
trả mọi chi phí ma chay. Hôm cử hành đàn chay, thì trên trời, giữa một đám mây
năm sắc, đức Phật Thiên Tôn hiện ra phán truyền cho Kính Tâm thành Phật Quan Âm.
Ngày nay, để chỉ mối
oan to lớn, người ta thường bảo "oan Thị Kính", là từ truyện này mà
ra.
Hết.
KHẢO DỊ
Người Nghệ-an có hai
truyện có tình tiết gần với truyện Quan Âm Thị Kính:
1. Sự tích cây
chay: Có cô con gái mới về nhà chồng. Một hôm chồng nằm ngủ, nàng thấy ở cằm
chồng có cây râu mọc ngược, bèn cầm dao toan cắt. Chồng chợt tỉnh dậy thấy dao
kề cổ, bèn kêu lên. Cha mẹ chồng chạy đến nói: - "Tưởng là dâu
thế nào, ai ngờ bạc ác, toan giết chồng". Cô gái kêu trời mà khóc, khóc
mãi, sau chết đứng hóa thành cây chay. Chay ăn với trầu cũng hóa đỏ là vì tấm
lòng son của cô gái nên mới như thế1.
2. Đứa con của
thần: Huyện Thanh-chương có một người đàn bà góa tên là Huỳnh Thị Phước,
40 tuổi, xin vào chùa đi tu. Một đêm nọ nằm chiêm bao thấy có một người mặt đỏ
như son, mặc áo xanh. Tỉnh dậy, người dàn bà kể lại với hòa thượng trụ
trì chùa. Hòa thượng bảo: - "Có lẽ Thần Phật cho nàng đứa con, vậy nàng
nên ra khỏi chùa để sinh chồi nảy lộc, kẻo xóm làng nghi". Sau đó người
đàn bà sinh được một đứa con trai. Hương chức làng bèn lên án hòa thượng, buộc
hòa thượng phải nuôi đứa bé. Lên mười tuổi, đứa bé học giỏi, nhưng chưa biết đặt
tên nó là gì. Một đêm nọ, thần báo mộng: - "Trên ngọn cây kia có khắc tên
của nó. Vậy bảo trẻ em trèo lên tìm xem". Sáng dậy, người ta tìm
được ba chữ Lương Quy Chính khắc trên ngọn cây. Bèn dùng đặt tên cho đứa bé.
Về sau đứa bé đi thi đỗ cao làm quan to. Khi vị hòa thượng ở chùa chết, người
làng lên khâm liệm mới biết ông vốn là ái nam ái nữ.
Riêng vì sự tích
Quan Âm cũng có nhiều dị bản. Việt-nam còn có Phật thoại
Bà chúa Ba hay
là Quan âm Nam-hải tương đối phổ biến ở miền Bắc:
Xưa có Diệu Thiện, một
nàng công chúa xinh đẹp con gái Diệu Trang Vương, nàng có hai người chị: Diệu
Thanh và Diệu Âm, cả ba kiếp trước đều là con trai họ Thi, một gia đình nhân đức.
Hai chị đều lấy chồng, còn Diệu Thiện thì trái lại chỉ muốn tu hành. Vua cha tức
giận truyền giam cầm, và mặc dù hoàng hậu và hai chị hết lời khuyên dỗ, nàng
cũng không đổi chí. Diệu Trang Vương lập kế giả vờ bằng lòng cho nàng đi tu tại
một ngôi chùa lớn, nhưng lại bí mật ra lệnh cho hòa thượng bắt công chúa phải sớm
khuya làm lụng cực nhọc để cho thoái chí. Nhưng nàng vẫn chịu đựng được; việc
giao ngày càng nhiều, bằng việc của hàng chục người; nàng vẫn làm xong (có chim
tới nhặt rau, rồng lấy nước hộ...). Không thấy công chúa nản lòng trở về,
vua nghi hòa thượng không tuân lệnh mình, bèn sai người đốt chùa. Diệu Thiện tự trách mình là nguyên nhân chính của
tai nạn bèn cắn ngón tay cầu nguyện, tập tức có rồng xuống phun nước dập tắt ngọn
lửa. Vua lại ra lệnh đem công chúa ra xử trảm, nhưng gươm bị gãy khi chạm vào cổ.
Đột nhiên có một mãnh hổ nhảy vào tha nàng đi trong khi trời đất tối sầm, sấm
ran chớp giật. Lúc này hồn nàng được Thập điện Diêm vương mời xuống thăm. Trông
thấy tất cả những cảnh trừng phạt, nàng liền niệm Phật làm cho Diêm vương ra lệnh
ân xá tất cả tội nhân.
Khi Diệu Thiện trở về
cõi trần thì Phật đã hóa làm một chàng trai tuấn tú để thử thách. Thấy nàng quả
vững lòng tu, Phật bèn chỉ cho "rằng có một chùa tại Hương-tích san (sơn);
gần bể Nam-việt thanh nhàn; sang tu chốn ấy sẽ toan viên
thành". Sau nhiều năm tu luyện, nàng trở thành Phật bà Quan Âm "Một
thân hóa được ra nghìn muôn thân" (vì vậy ngày nay người ta diễn tả
thành Phật ngàn tay ngàn mắt). Theo hầu có hai đệ tử: 1) Thiện Tài, một em
trai mồ côi; 2) Long Nữ, con gái Long vương, đều được cứu vớt và qua
nhiều thử thách.
Về sau vua Diệu
Trang Vương bị bệnh nan y, yết bảng sẽ trao ngôi báu cho ai chữa lành. Nhưng mọi
thứ thuốc đều không công hiệu. Nghe tin này, Diệu Thiện biến thành một thày thuốc
đến giật bảng và cho biết bệnh ấy chỉ có tay và mắt của một tiên nữ tu tại núi
Hương-tích mới khỏi. Vua bèn cho người sang nước Đại-việt cầu xin được một tay
một mắt. Bệnh quả lành, nhưng chỉ lành có được nửa thân. Thầy thuốc lại giục
xin nốt một tay một mắt còn lại của tiên nữ. Khi bệnh lành hẳn vua định
truyền ngôi cho thầy thuốc như đã hứa, nhưng thầy đã bỏ di mất. Vua và hoàng hậu
quyết tìm đường sang Hương-tích để tạ ơn tiên nữ. Đoàn ngự giá đang trên đường
sang Nam, thì ở kinh đô Hưng-lâm bỗng xảy ra cuộc biến, ngai vàng suýt vào tay
kẻ phản bội nếu không có Diệu Thiện sai hai đệ tử đi cứu. Trong cuộc này, hai
người chị Diệu Thanh và Diệu Âm bị bắt giam ở ngục, và khi được cứu thoát, hai
người đuổi theo đoàn ngự giá. Sau bao nhiêu ngày gian khổ, cả đoàn cũng đến được
Hương-tích. Khi nhận ra con gái với hai mắt bị móc, hai tay bị chặt, máu còn
chưa khô, hoàng hậu ngã ra bất tỉnh. Diệu Thiện cho biết nếu bố mẹ nguyện bỏ ác
làm thiện thì mình sẽ lành lặn như xua. Sự việc quả như lời khi vua và hoàng hậu
phát thệ. Cả nhà ở lại đây tu hành. Diệu Thanh cũng trở thành Văn Thù bồ tát và Diệu Âm trở thành Phổ Hiền bồ tát.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment