Ngày xưa, có ba người
học trò là Tùng, Trúc, Mai, quê ở ba miền khác nhau, tình cờ cùng học với nhau
một thầy. Cha mẹ họ đều nghèo túng nhưng vẫn cố gắng cho con đi học. Trong những
ngày xa nhà vùi đầu vào sách vở, bộ ba ấy kết bạn và nhau rất thân thiết. Họ ước
với nhau rằng nếu sau này người nào làm ăn khấm khá thì sẽ không quên
những người cùng sống trong buổi hàn vi, và sẽ cố tìm cách giúp đỡ bạn qua cơn
nghèo ngặt. Sau một thời gian học hành, cả ba người đều vì hoàn cảnh nên từ giã
nhau mỗi người đi một ngả.
Tùng là người thứ nhất
có số phận trở nên may mắn. Sẵn có óc thông minh, anh cố công theo đuổi nghiệp
sách đèn. Vì nghèo rớt mùng tơi, anh cầy cục theo hầu một cụ Nghè để vừa được
ăn vừa được học. Thấy anh học giỏi, cụ Nghè hết lòng dạy dỗ, coi anh như con.
Trải mấy năm trường sôi kinh nấu sử, cuối cùng anh thi đỗ tiến sĩ và được bổ
làm quan ở kinh đô. Từ đấy cuộc sống của Tùng lên như điều gặp gió, khó có ai
theo kịp.
Tuy sống trong cảnh
giàu sang, Tùng vẫn không quên những người bạn đèn sách xưa kia. Cho nên, một hôm,
Tùng xin phép nghỉ việc công để đi tìm bạn. Sợ đi có cáng xá lính hầu sẽ làm
phiền đến mọi người, nên anh cải trang làm một người dân thường. Không bao lâu
anh đã tìm tới nhà Trúc, một trong hai người bạn thân ngày trước.
Lại nói chuyện Trúc
từ ngày thôi học, được thừa hưởng một phần ruộng đất của ông bà bên ngoại để lại.
Hắn ta biết cách xoay sở và chịu khó. Vì thế chỉ trong mươi năm, hắn đã trở nên
khá giả: ruộng sâu trâu nái, vườn cau ao cá đủ cung cấp cho hắn và gia đình sống
một cuộc đời sung túc. Nhưng Trúc tính khí biển lận. Tuy giàu có, hắn vẫn không
muốn mất cho ai một đồng một chữ nào. Cũng vì thế, hắn quên mất cả những
lời hứa hẹn với mấy người bạn nối khố ngày xưa: - "Ôi dào! Tìm làm gì
cho mất công. Các ông ấy cũng chả nhớ gì đến bạn nữa là ta".
Nghĩ vậy, Trúc rất yên tâm về hành động của mình.
Khi gặp Trúc, thấy
Trúc giàu có, để thử lòng bạn cũ. Tùng không nói vội đến hoàn cảnh đỗ đạt của bản
thân: chỉ cho biết rằng vì nhớ bạn nên anh tìm đến nhà chơi. Thấy bộ dạng bề
ngoài của Tùng. Trúc đoán già đoán non rằng Tùng may lắm mới đủ ăn, nay tìm đến
nhà mình không khéo lại dụng tình vay mượn chi đây. Nghĩ vậy, sau khi chào hỏi
Tùng, Trúc cũng làm ra vẻ khó khăn: - "Thú thực với anh nếu không mắc mấy chuyện
làm ăn thất bát thì tôi đâu có thua em kém chị thế này. Hồi ấy tôi đã định ra
ngoài Huế tìm anh, nhưng vì mấy trận mất mùa liên tiếp, kế đó là một trận đói
khủng khiếp, trong nhà có mấy thửa ruộng tổ nghiệp phải cầm đi, gần đây mới chuộc
về được."
Trúc còn nói nhiều nữa,
chủ tâm là để khóa mồm Tùng nếu hắn có ý định vay tiền. Và để tỏ ra là mình thực
sự nghèo khó, Trúc đãi bạn theo mức bình thường. Buổi sáng hôm sau, khi người đầy
tớ nhà Trúc đến thưa với chủ xin làm một mẻ lưới ở ao kiếm vài con mè
béo đãi khách để y còn ra đồng cày ruộng, thì Trúc đã ngăn lại:
- Úy! "Dần
bất khả hạ trì" (giờ dần không nên xuống ao) mày lại không nhớ
câu ngạn ngữ ấy ư? Mày muốn làm cho tao sạt nghiệp hay sao mà đòi bắt
cá vào giờ này?
Biết ý chủ, người
đày tớ lẳng lặng lui ra. Đến chiều hôm ấy, khi gà vào chuồng, vợ Trúc bảo người
nhà nhốt riêng một con để giết thịt. Nhưng khi đưa gà ra cắt tiết, Trúc đã vội
chạy xuống bếp:
- Ồ! "Dậu
bất khả sát kê" (giờ dậu không nên giết gà), bản cũ tâm giao ăn gì mà chẳng
được, còn giết gà vào giờ này thì kiêng lắm đấy!
Khi tới nhà Mai -
người bạn nối khố thứ hai, Tùng vẫn khoác bộ cánh một người nghèo như lúc tới
nhà Trúc. Và Tùng vẫn giấu kín không lộ cho Mai biết hoàn cảnh thực của mình.
Mai từ lúc thôi học, trở về gặp cảnh nhà bấn bách, anh cố sức chèo chống nhưng
không gặp thời. Anh đi buôn mấy chuyến bị lỗ vốn, quay sang dạy học thì bị ốm,
có mấy sào ruộng tổ nghiệp phải bán đi để chạy thuốc. Cuối cùng hai vợ chồng phải
làm nghề cày ruộng rẽ, có khi phải ngày ngày đi làm thuê mới đủ nuôi miệng. Tuy
sống trong lều tranh vách đất, kiếm miếng ăn rất chật vật, nhưng hai vợ chồng
không chút phàn nàn.
Thấy Tùng đến chơi
nhà, Mai đón tiếp rất niềm nở. Mai giới thiệu bạn với vợ:
- Đây là người
bạn thân thiết nhất ngày còn đi học với cụ đồ trên tỉnh. Từ dạo ấy đến giờ, dễ
đến mười lăm năm. Mình nhớ chạy kiếm thứ gì về đãi anh ấy, nghe!
Tùng thấy vợ bạn
vâng lời chồng cắp rổ đi chợ. Trưa lại, anh thấy người đàn bà ấy đội một rổ thức
ăn về, nhưng trên đầu lại trùm một chiếc khăn đen mặc dầu không phải
vào mùa gió rét. Lúc đầu Tùng không để ý. Sau đó, trong khi anh đi thơ thẩn ở hồi
nhà thì thấy Mai và vợ kéo nhau vào buồng rì rầm trò chuyện. Ghé trông
vào, một điều kinh ngạc đập vào mắt anh: lúc này vợ Mai đã lột bỏ chiếc
khăn, nhưng mái tóc xanh trên đầu thì không còn nữa. Vì vậy, khi vợ
chồng Mai bước ra khỏi buồng, Tùng vội hỏi lý do vì sao nàng lại cắt tóc. Biết
không giấu được nữa, vợ Mai đành cắt nghĩa:
- Lúc sáng ra
đi không có tiền, định hỏi mượn mấy người quen, họ cũng không sẵn. Nhân có nhà
hàng tóc giả cần mua mấy lọn, sẵn có mớ tóc dài, tôi liền bán đi. Một
đời một kiếp bạn mới đến chơi nhà, không lẽ ngồi nhìn nhau suông tình ư? Anh đừng
ngại, tóc cắt đi rồi nó lại mọc, lo gì.
Tùng hết sức xúc động
về hành động của vợ Mai. Anh bèn nói thật với bạn biết, nào chuyện mình thi đỗ
làm quan, cất công tìm bạn, rồi đến nhà Trúc được y đối đãi tệ bạc thế nào,
v.v... Nói xong, Tùng lục tay nải đưa ra cho vợ Mai một hộp trầu bằng vàng, và nói:
- "Hàm
răng cái tóc là góc con người", tôi rất ân hận không được biết trước để
ngăn chị đừng bán mất mái tóc quý giá. Nhưng cũng nhờ đấy mà tôi mới biết được
tấm lòng vàng của chị. Bây giờ xin tặng chị vật này, chị cứ bán đi mà tiêu, sau
này tóc dài, sẽ lại kiếm cách đi làm ăn.
Sau khi trở về được
ít lâu, Tùng lại cho người đưa tiền đến cho Mai và cho Mai đi Nam-định học nghề
thuộc da. Khi học đã thành nghề, Tùng còn giúp Mai mở một xưởng thuộc da ở ngay
tại làng. Công việc kinh doanh của họ ngày một phát đạt. Mai - còn
đem nghề của mình truyền bá cho dân làng. Nghề thuộc da trở thành một nghề làm ăn
thịnh vượng chưa từng có trong một vùng.
Còn Trúc mãi về sau
mới nghe tin Tùng đã làm quan to ở kinh thì lấy làm ân hận. Kế đó lại nghe tin
Mai nhờ Tùng mà làm ăn khấm khá. "Phải chi hồi đó ta tiếp bạn ta
cho hậu, thì lo gì bạn ta lại không chạy cho được một chút phẩm hàm", hắn
bụng bảo dạ thế. Một hôm, hắn bèn khăn gói lần lượt tìm đến nhà hai
người thăm hỏi. Song đến nhà ai, hắn cũng được tiếp đãi một cách nhạt nhẽo. Hắn
đành tiu nghỉu trở về.
Hết.
KHẢO DỊ
Về chỗ mở xưởng thuộc
da, ở Hà-tĩnh còn có người kể là giúp vốn buôn da trâu bò.
Trung-quốc có một vở
tuồng đời Nguyên nhan đề Bà mẹ họ Đậu cắt tóc lấy tiền thết khách có
nội dung gần giống với truyện của ta:
Có anh chàng họ Đậu
vì nhà quá nghèo, không biết lấy gì đề tiếp đãi ông bạn làm quan đi kinh lý
trong quận, bèn viết bức thiếp cầm đồ lấy mấy quan tiền. Khi biết rõ
chuyện, mẹ chàng buộc con phải mang đi trả, rồi cắt tóc mình bán cho người ta lấy
5 quan. Nhờ vậy, anh chàng họ Đậu thết khách tử tế.
Khách cảm động về tấm
lòng của bà mẹ, bèn đưa bạn về kinh cho ăn học. Sau đó chàng thi đỗ làm
quan.
Trong Kinh luật
dị tướng có truyện Cô gái bán tóc để thết Phật:
Một cô gái có mái
tóc dài màu hung hung rất xinh. Một bà vợ vua thấy vậy đòi mua một ngàn đồng
vàng. Cô muốn bán nhưng rồi lại thôi. Một hôm gặp đức Phật thuyết pháp, cô muốn
mời Phật đến nhà đãi ăn một bữa, bèn tỏ ý ấy với mẹ. Mẹ cô bảo: - "Nhà ta
nghèo quá biết lấy gì mà mời?". - "Cứ bán mái tóc của
con". Bèn mời Phật mai đến chơi nhà. Cô gái đến gặp bà phi tỏ quyết tâm
bán tóc, thì bà này lại bắt chẹt, chỉ trả có năm trăm. Cô cầm tiền đi mua thức
ăn. Khi đức Phật đến, thấy lòng tốt của nàng, bèn hóa phép cho tóc nàng mọc lại
như cũ.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment