Ngày xưa, có
hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy
nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng
ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe
được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.
Một năm trời
làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi
miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê
nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt.
Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai
quấy nhiễu.
Túng thế hai
vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào
nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận
đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo
vợ:
- Tôi phải đi
một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được.
Nghe chồng
nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo:
- Tôi chưa
biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không
nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho
loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan
tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi
trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê
người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác.
Người vợ khóc
lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế
nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi.
Sau khi tiễn
chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì
nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây,
người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ
lanh lẹ và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người
chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.
Thời gian
trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua.
Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Những cây bưởi trước sân đã ba lần
trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng.
Giữa lúc ấy
người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đó, vừa chết vợ. Sẵn có cảm tình với
nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu
được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:
- Chồng tôi
hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy
cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo.
Ba năm nữa
lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số.
Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên
con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục
nàng quyết định:
- Một là
chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một nơi xa
xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia
đình mới. Sức của tôi và của cải tôi sẽ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.
Nàng sửa lại
vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm
nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này
nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ
hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.
Đột nhiên sau
đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ
gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu.
Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: - "Thế là hết. Bởi
số cả!''.
Việc người
đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới
cưới không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn
mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ.
- Tôi đi vắng
lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ
cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi.
Mặc dầu người
vợ nài nỷ hết sức, mặc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng
nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng
không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ
tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong
một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.
Cái chết kinh
khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là
thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm
trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám
giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách
âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.
Thế rồi buổi
sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì
người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh
nhà.
Người chồng
mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh
vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ
dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: - "Tại sao ta cố ý cướp vợ của
người khác!". Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và
cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.
Lúc xuống đến
thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để
định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự
thật ôm ấp trong lòng Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào
xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng.
Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ
mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình
của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng
một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng
cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ rộng rãi trong lòng mình, đồng
thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng
nhiệt của chàng.
Diêm vương
ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm
cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba
người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn
luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức Táo quân
trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
Truyện 194. Sự tích táo quân
KHẢO DỊ
Về Sự tích
ông đầu rau hay Sự tích thần Bếp thì có khá nhiều, nội dung chỉ khác nhau về
chi tiết. Một truyện chúng tôi đã kể trong Lược khảo về thần thoại Việt-nam,
mục "Thần Bếp":
Xưa có hai vợ
chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau, đã lâu mà không có con. Một hôm vợ chồng
cãi nhau, chồng giở thói vũ phu đánh vợ. Vợ bỏ nhà ra đi, sau đó kết duyên với
một người khác tên là Phạm Lang. Về phần Trọng Cao khi vợ bỏ đi rồi thì mới
thấy hối, bèn cũng bỏ nhà đi tìm. Tìm mãi không được, hết tiền ăn đường, đành
phải ăn xin lần hồi.
Một hôm Trọng
Cao tình cờ đến xin tại nhà Phạm Lang. Thị Nhi nhận ra chồng cũ: nhân chồng mới
đi vắng, đưa vào thết đãi, rồi vì sợ chồng mới về bắt gặp, mới dắt Trọng Cao ra
nằm ở một đống rơm ngoài đồng. Nhưng nàng không ngờ rằng chỉ một lúc sau, đống
rơm ấy lại bị Phạm Lang đốt đi để lấy tro bón ruộng. Cũng như truyện trên, thấy
chồng cũ chết, Thị Nhi cũng nhảy vào lửa chết theo. Phạm Lang, rồi người đầy tớ
lần lượt xông vào cứu cũng đều chết nốt. Họ đều được Ngọc Hoàng cho làm thần
Bếp.
Một truyện
khác do người Sơn-tây kể:
Có hai vợ
chồng nghèo, chồng làm nghề buôn hương, vợ làm ruộng. Chồng thường xa vợ thi
thoảng mới về một lần. Có lúc ông ta đi suốt năm chỉ gửi tiền về cho vợ tiêu mà
thôi. Một chuyến chồng đi biền biệt không tiền nong tin tức gì cả, người vợ chờ
mãi đến gần mười năm mà vẫn không thấy tăm dạng.
Rồi đó, người
vợ nối duyên với một người khác chuyên nghề săn bắn và làm ruộng. Người này có
nuôi một người đầy tớ tên là Lốc. Người chồng mới rất yêu quý vợ.
Một hôm,
trong khi chồng mới và đầy tớ đi săn vắng thì người chồng cũ đột nhiên trở về
sau bao nhiêu năm cách biệt. Ông bị giặc bắt lưu lạc trong rừng núi mãi đến nay
mới trốn thoát được. Người vợ chỉ còn biết ôm lấy chồng cũ khóc than rồi dọn
cơm rượu cho ăn. Khi chồng mới sắp về, vợ đưa chồng cũ ra ngoài đống rơm để
tránh tiếng không hay.
Chủ và tớ đi
săn về được một con cầy. Chồng giục vợ đi sắm mọi thứ để làm một bữa chén.
Trong khi người đàn bà đi vắng thì người đầy tớ đốt đống rơm để thui con cầy.
Lửa vô tình đã đốt chết người bán hương đang lúc ngủ say.
Giữa lúc đó
thì vợ về. Thấy thế, nàng rất đau đớn, tự coi như mình phạm tội giết chồng cũ.
vội nhảy vào đống lửa. Người chồng mới thương vợ đâm đầu vào
đó thiêu nốt.
Người đầy tớ thương chủ, lại thêm hối hận vì tay mình đốt chết người nên cũng
nhảy vào lửa chết theo. Ba vợ chồng sau đó được Diêm vương cho hóa thành ba ông
đầu rau. Còn người đầy tớ được hóa thành cái dùng để chặn đống nhấm, người ta
quen gọi là thằng Lốc. Trong những bức tranh Táo quân người ta không bao giờ
quên về người đầy tớ có nghĩa đứng bên cạnh ba người.
Một truyện
thứ tư thấy chép trong Dân Việt-nam (1948):
Người chồng
cũ mắc bệnh như bệnh hủi. Chồng khuyên vợ bỏ đi nhưng người vợ không nghe. Một
hôm vợ đưa tiền gạo ra cho một người ăn mày, chồng giả cách vu cho vợ có tình ý
với người đó. Vợ tức mình nhảy xuống sông tự tử nhưng sau lại được người ăn mày
kia cứu thoát. Nỗi oan lại càng khó tỏ, người vợ đành bỏ đi theo người cứu mình
và lấy anh ta làm chồng.
Người chồng
cũ một thân một mình không ai giúp đỡ, phải đi hành khất. Tình cờ một hôm đến
gõ cửa nhà vợ cũ, vợ vô tình đem tiền gạo ra cho. Thấy vợ, hắn bỏ chạy rồi đâm
đầu vào một đống lửa. Vợ đuổi theo không cứu kịp cũng nhảy vào để chết theo.
Người chồng mới cũng đuổi theo và nhảy luôn vào lửa khi thấy vợ chết. Xuống âm
phủ họ đều được làm thần Bếp.
Comments
Post a Comment