Vua Hùng Vương
thứ ba có một nàng công chúa rất xinh đẹp. Người ta nói thuở mới lọt lòng, nàng
được các bà tiên tô điểm, nên về sau mới có nhan sắc như thế. Vì vậy vua đặt
tên là Tiên Dung. Vua Hùng là người hay nuông con. Đối với Tiên Dung vua lại
càng yêu chiều, muốn gì được nấy.
Nhưng công chúa Tiên
Dung chỉ có mỗi một sở thích là đi chơi mọi nơi trong nước. Vua phải sắm cho
nàng một chiếc thuyền rất xinh, có đủ mọi người hầu hạ và mọi thức ăn cần dùng.
Mỗi năm vào khoảng cuối mùa xuân, chiếc thuyền công chúa bắt đầu xuất phát. Cho
đến lúc những con chim hậu điểu bay từng đàn ở phía Bắc sang thì công chúa mới
trở về nơi cấm cung. Cũng có lúc công chúa quá vui quên cả về, làm
cho vua lo lắng. Năm nàng mười tám tuổi, từng có một vài hoàng tử ở các nước
láng giềng ngỏ ý muốn được kết duyên nhưng công chúa nhất thiết từ chối. Nàng
nói với vua Hùng trong một bữa tiệc: - Cha à! Con sẽ không lấy
chồng đâu!
Hồi đó ở Chử-xá có một
người đánh cá tên là Chử Cù Vân và con trai là thằng bé Chử. Tuy nghèo, họ vẫn
sống vui vẻ trong túp lều dựng trên bãi cát.
Không may một
hôm trong khi cha con đi câu vắng, ở nhà lửa bén cháy sạch chả còn tý gì. Hai
cha con chỉ còn một bộ đồ nghề và mỗi một chiếc khố vải đang mặc. Chiếc khố độc
nhất ấy dùng để làm vật che thân cho cả hai mỗi lần ra ngoài. Khi người này
mang khố thì người kia phải chịu khó cởi truồng nằm co để đợi đến lượt mình.
Cha con nhà họ Chử hết
nạn này đến tiếp nạn khác, Chử Cù Vân thiếu áo, không chịu được lạnh dần dần
sinh bệnh. Bệnh của ông mỗi ngày một nặng. Trước còn gắng gượng đi câu được
nhưng sau nằm liệt nhà. Một hôm biết mình sắp chết, ông gọi con lại dặn dò mọi
việc. Qua hơi thở phều phào ông nói: "Có mỗi một chiếc khố... con giữ mà mặc
cứ chôn trần là được rồi". Nhưng thằng bé Chử - sau này người ta gọi là Chử
Đồng Tử - rất thương cha, không muốn người cha chết lạnh lẽo. - "Rồi ta sẽ
cố kiếm nhiều cá để đổi lấy cái khố khác!". Nghĩ thế, anh quyết định dùng
chiếc khố độc nhất đó cuốn cha lại từ đầu đến chân rồi chờ đến nửa đêm, anh đưa
đến cồn cao rồi vùi lại.
Từ đó không có cái
gì để che thân, Chử Đồng Tử phải làm việc ban đêm. Cứ chiều hôm khi không còn
trông rõ mặt người nữa, anh bắt đầu ra bãi câu cá. Cho đến mờ sánh
anh sẽ lội ngập nửa người, lần mò đến bến đổi cá cho thuyền buôn lấy gạo. Thế rồi
lại lội đến bến vắng người, lén về lều của mình nấu ăn và ngủ một giấc đến chiều
mới dậy. Rồi lại ăn uống và chuẩn bị đi câu nữa. Đồng Tử đã sống cuộc đời lén
lút như thế đã hơn hai năm. Có lúc anh câu được nhiều cá, lúc ít cá
không chừng, cũng có lúc không câu được gì cả đành men theo thuyền cá xin ăn.
Nhưng chẳng có lúc nào câu được một số cá đủ để đổi lấy một cái khố cả. Vì thế
anh cứ chịu trần truồng mãi. Một hôm, Đồng Tử mang cá đi đổi gạo thì chợt có tiếng
huyên náo. Mọi người kháo nhau có thuyền của Công chúa sắp tới địa phương. Từ
đàng xa, chiếc thuyền sơn hiện ra mỗi lúc một lớn, có quân gia cờ quạt, chiêng
trống đàn sáo vang rộng cả một khúc sông. Thấy mọi người đổ ra đường, ra bến đi
xem rất đông, Chử Đồng Tử bí lối không về được, Anh đành rúc vào một bụi lau ở
bãi rồi bỗng nghĩ ra một kế giấu mình kín hơn là bới cát thành một huyệt rồi nằm
xuống, tự vùi mình lại
Giữa lúc đó thì Tiên
Dung sai cắm sào rồi bỏ thuyền lên bộ. Tự nhiên công chúa có ý muốn tắm. Theo lệ
thường, người ta quây màn lại một chỗ kín đáo trên đất rồi đun nước
thơm vào để công chúa dùng.
Không ngờ chỗ mà bọn
thị tỳ quây màn hôm nay lại chính là chỗ mà Đồng Tử vùi mình dưới đó. Anh nằm
dưới đất chả biết gì hết, chỉ nghe có tiếng nện, tiếng chân người giẫm thình thịch
và tiếng nước dội rào rào. Cho đến lúc anh toàn thân ướt đẫm cả nước. Rồi chỉ một
lúc sau, dòng nước dội hẳn vào người anh. Biết là bại lộ. Đồng Tử ngượng ngùng
ngồi nhổm dậy. Công chúa xiết bao kinh ngạc, khi thấy có một người lạ cũng trần
truồng như nàng trong màn. Thoạt đầu, Tiên Dung tưởng là ma quái, toan la lên để
bọn quân hầu vào cứu, nhưng thấy người con trai đó chẳng có chút gì là độc ác,
nên nàng cố trấn tĩnh, ôn tồn bảo: - Ngươi là ai? Tại
sao lại vùi mình ở đây? Nói mau!
Nghe người trai lạ kể
nông nỗi của mình, công chúa rơm rớm nước mắt. Nàng không ngờ trong đất đai của
cha nàng trị vì lại có hạng người đói khổ đến nỗi không có lấy một mẩu vải che
thân.
Cảm lòng chí hiếu của
người con trai trước mặt, Tiên Dung nói một mình: - "Những người thế này
chưa chắc bọn con trai trong thiên hạ đã sánh kịp!". Bỗng chốc nàng đưa gáo
cho Đồng Tử:- Thôi anh tắm rửa rồi đi nhé. Lạ thật! Chắc có trời!
Bọn thị tỳ và lính
tráng hôm đó rất lấy làm sửng sốt vì thấy từ trong màn bước về thuyền không phải
chỉ một mình công chúa mà là hai người và người thứ hai lại không phải là nữ mà
là một chàng trai khỏe đẹp. Nàng bèn sai lấy một bộ võ phục của một viên
quan hầu cho Đồng Tử mặc. Bấy giờ trước mặt mọi người, công chúa thẳng thắn kể
cuộc gặp gỡ kỳ dị lúc nãy rồi nói: - Người này sẽ là chồng tôi! Nghe
thế.
Chử Đồng Tử đỏ mặt: - Tôi
không dám, không dám.
Nhưng Tiên Dung bảo: - Tôi
vốn không có ý định lấy chồng. Nay tình cờ gặp gỡ thế này chắc có Trời xui.
Tất cả đều theo ý
Tiên Dung. Duy có hai viên quan hầu và một số thị tỳ, lính tráng không cho là
cuộc phối hợp tốt đẹp. Nhưng thấy công chúa táo bạo lại thường được vua chiều
chuộng cho nên cuối cùng họ cũng không dám cản. Và rồi hôn lễ cử hành ngay trên
sông, có một số bô lão địa phương tới dự.
Nhưng khi tin bắn về
cung, vua Hùng không ngăn được cơn giận dữ. Vua bảo quần thần:- Thà nó
không có chồng còn hơn. Thực là đốn mạt! Tại sao nó không chịu hỏi ta. Thôi từ
nay nhất thiết cấm cửa. Hễ nó vác mặt về Phong-châu thì cho phép Lạc tướng chém
chết trước, tâu sau.
Thuyền của Tiên Dung
vừa nhổ neo ra về thì một người em gái của nàng đã lên sai một người đầy tớ
trung thành, hỏa tốc báo tin không hay đó cho nàng biết. Nàng nhận tin với một
vẻ lo ngại. Nàng đã biết tính vua cha khi thương thì thương rất mực mà khi giận
cũng có thể đang tay được. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc. Cuối cùng, nàng hội
họp tất cả những người dưới quyền mình lại rồi nói rõ ý định: - Vua cha nay không thương ta nữa. Vậy vợ chồng ta quyết định không về. Cho
các ngươi được về với cha ta và về với bà con làng nước.
Hai vợ chồng từ đó sống
một cuộc đời mới. Họ giao thiệp với các thuyền buôn nước ngoài vẫn thường ghé
vào để bán hàng và cất hàng. Công cuộc buôn bán của họ mỗi ngày một khá. Chỗ bến
sông ấy dần dần trở thành một cái chợ quyến rũ được nhiều người.
Một hôm, Đồng Tử
mang vàng theo một khách buôn lớn định ra nước ngoài mua hàng tận gốc để kiếm một
số lãi to. Họ dong buồm đi về phương Nam. Chỉ trong năm ngày đến một ngọn
núi giữa biển, gọi là núi Quỳnh-viên, thuyền dừng lại lấy nước ngọt. Đồng
Tử bước lên đất rồi vui chân, anh trèo mãi lên tận đỉnh đảo. Đang say
sưa ngắm cảnh, bỗng nhiên Đồng Tử thấy một cái am nhỏ. Trước am có một đạo sĩ
ngồi định thần trên một phiến đá. Anh bước tới toan cất tiếng thì người kia đã
hỏi trước: - Thằng bé Chử! Sao lại muộn thế?
Biết là bậc thần dị,
anh phủ phục xuống cạnh người người lạ, xin làm đồ đệ. Khi bọn lái buôn đến am
tìm Đồng Tử thì anh trao tất cả vàng cho họ và nói: - Các bác cứ
cầm lấy mà buôn bán. Tôi sẽ ở đây cho đến khi thành đạo.
Đồng Tử hiểu đạo rất
chóng. Sư phụ còn dạy cho anh nhiều phép mầu nhiệm. Cho đến khi chiếc thuyền
buôn trở lại đón, thì anh được sư phụ trao cho một chiếc gậy và một cái nón và bảo:- Thế
là con có thể hạ sơn được. Ta giao cho con những vật này. Tất cả sự linh diệu đều
ở đó cả.
Bước xuống thuyền, Đồng
Tử không ngờ số vốn của mình hồi trước giờ đây người ta đã làm nảy nở gấp mười.
Nhưng nhìn những thoi vàng sáng chóe, anh không thấy thích thú như xưa. Những
câu chào hỏi, những lời bàn bạc tính toán nhao nhao của các bạn buôn bấy giờ đối
với anh đều nhạt nhẽo.
Về đến nhà, Đồng Tử
truyền đạo lại cho vợ. Cũng như chồng, Tiên Dung học đạo rất chóng. Thế rồi một
hôm, hai vợ chồng đem tất cả gia sản của mình phân phát cho những người nghèo
khổ trong vùng. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy hai vợ chồng công chúa bỏ sự
làm ăn đang thịnh để ra đi, không biết là đi đâu.
Hai vợ chồng ngày
đêm nghỉ cốt tìm thầy học đạo thêm nữa. Một hôm, trời đã tối, họ đi
mãi, rất mệt nhưng vẫn chưa gặp một cái quán nào. Chỗ này không nghe qua một tiếng
gà gáy chó sủa. Cuối cùng họ nghỉ lại trên bãi cỏ. Đồng Tử cắm gậy của mình xuống
đất rồi úp nón lên che sương. Canh ba đêm hôm đấy, bỗng có tiếng chuyển động dữ
dội. Thế là phút chốc họ không phải nằm trên bãi cỏ nữa mà nằm trên một chiếc
giường ngọc trong một tòa lầu chăn gối êm dịu như nhung. Quần áo của họ mặc là
thứ quần áo mầu, lấp lánh như vảy bạc.
Khi ra dãy hành lang
có bao lơn trắng như tuyết, hai vợ chồng mới biết không chỉ có một nhà mà có rất
nhiều nhà, nhiều lầu. Ngoài xa xa lại có một bức thành dày ôm lấy khu vực này.
Đến đâu cũng có người hầu hạ và quân lính canh gác. Họ ăn bận nhiều mầu nhiều
kiểu rất đẹp. Tiên Dung hỏi hai thị nữ:- Đây là chốn nào?
Họ đáp:- Đây
là giang sơn riêng của công chúa như lời ước muốn của người.
Khi hai vợ chồng bước
tới chính đường thì một viên quan từ trong tiến ra, giơ cao một mớ sổ sách, quỳ
chào họ: - Xin dâng lên công chúa tất cả mọi vật ở đây!
Hai vợ chồng cùng giở
ra xem thì thấy trong đó kê tất cả bao nhiêu lâu đài nhà cửa, bao nhiêu vật dụng
linh tinh, bao nhiêu khí giới, v.v... Trong mười gian nhà kho chứa trữ bao
nhiêu châu ngọc, vàng bạc, lương thực. Ngoài ra còn kê tên tuổi bao nhiêu viên
quan văn võ, bao nhiêu lính tráng, bao nhiêu nô tỳ, v.v... Chồng bảo vợ: - Thế
là từ nay chúng ta làm chủ giang sơn này đây!
Từ đó hai vợ chồng
lưu lại vui hưởng một cuộc sống khác trước. Nhân dân quanh vùng nghe đồn hai vợ
chồng công chúa có phép tiên xây dựng lâu đài thành quách trong một đêm, nên ai
nấy rủ nhau đến xin che chở. Họ lũ lượt mang hoa quả, nếp gạo, gà lợn để làm lễ
chào mừng những người chủ mới.
Tiếng đồn thổi mỗi
ngày một rộng và sau cùng tới tai Hùng Vương. Mấy tên quân lính do thám về báo
cho vua biết nào quân lính đông hàng mấy vạn, nào giáp sắt trống đồng
tề chỉnh, nào nhân dân quy phục mỗi ngày một đông, v.v... Chúng quả quyết rằng
hai vợ chồng công chúa không có gì hơn là muốn rạch đôi sơn hà với thiên tử.
Hùng Vương từ lâu đã
quên Tiên Dung, nay nghe tin báo, tự nhiên lòng giận lại bốc lên bừng bừng. Những
lúc như thế mọi người rất lo sợ, người ta thấy các Lạc tướng chuẩn bị ráo riết
dường như sắp có một cuộc chiến tranh xảy tới. Trong suốt mười lăm ngày các tay
nỏ được lệnh ra sức tập luyện. Trống đồng được dùng báo hiệu liên miên không
nghỉ. Trước khi đoàn quân xuất phát, vua Hùng bước ra cửa điện nói với họ: - Nó
từ lâu là giặc, hoàn toàn không phải là con ta. Các người cố gắng lấy
đầu của hai tên giặc về đây sẽ có trọng thưởng.
Nghe tin cáo cấp, tất
cả các tướng sĩ bộ hạ của Tiên Dung hội nhau định kế chống lại. Một viên tướng
đến trình bày với hai vợ chồng:- Nếu công chúa muốn, chúng tôi có thể
tiêu diệt quân địch trong khoảnh khắc.
Tiên Dung lắc đầu bảo họ:- Không
được. Ta đâu dám cự lệnh vua cha?
Chiều hôm ấy, quân đội
của Lạc tướng đã hạ trại ở bên kia bờ sông. Bóng cờ đã thấp thoáng trong lùm
cây. Bên này sông trong giang sơn của công chúa vẫn chưa có lệnh chuẩn
bị. Quân canh trên mặt thành luôn luôn đưa tin mới cho hai vợ chồng.
Nhưng họ vẫn thản nhiên tươi cười. Cũng như lệ thường, đêm hôm nay họ vẫn ngủ
trên chiếc giường ngọc.
Khoảng canh ba, bỗng
có tên quân vào báo tin rằng cầu phao bên địch đã bắc xong và hiện nay họ đang
nấu ăn. Hai vợ chồng ngồi dậy cùng hướng mặt trời lên. Thế là một trận
bão vụt lên, mỗi lúc một dữ dội. Đồng thời đất chuyển động ầm ầm. Gió xoáy một
cách kinh khủng đến nỗi có thể bốc tất cả mọi cái trên mặt đất ném đi một nơi khác.
Sáng hôm sau, nhân
dân quanh vùng cũng như quân đội vua Hùng đều thấy một sự lạ chưa từng có. Bão
đã tạnh từ lâu nhưng thành quách của công chúa, kể cả cung điện, nhà cửa, quân
gia, súc vật, đồ dùng đều bay đâu mất cả không còn sót một tý gì. Giữa đó một
cái đầm rộng mênh mang, đầy nước trắng xóa. Duy chỉ có cái nền cung của hai vợ
chồng công chúa thì vẫn còn. Người ta gọi cái đầm ấy là đầm Một-đêm (Nhất-dạ)
và cái nền ấy là bãi Tự-nhiên. Về sau trên cái nền ấy, người ta có lập miếu thờ
hai vợ chồng Chử Đồng Tử.
Xem thêm các truyện
khác tại đây:
-----