Ngày xưa ở
Gia-định có một người tên là Thủ Huồn. Hắn xuất thân làm thơ lại. Trong hơn hai
mươi năm luồn lọt trong các nha các ti, hắn đã làm cho bao nhiêu gia đình tan
nát, bao nhiêu người bị oan uổng; do đó hắn đã vơ vét được bao nhiêu là tiền của.
Vợ hắn chết sớm lại không có con cho nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu
cho hết. Ngoài số chôn cất, hắn đem tiền tậu ruộng làm nhà. Ruộng của hắn cò
bay thẳng cánh, mỗi mùa thu hoạch kể hàng ngàn "giạ" lúa. Khi thấy
cuộc sống quá thừa thãi, hắn bèn thôi việc về nhà, sống một cuộc đời trưởng giả.
Một hôm, có người
mách cho Thủ Huồn biết chợ Mạnh-ma ở Quảng-yên là chỗ người sống và người chết
có thể gặp nhau. Muốn gặp người chết, người sống phải chờ đến mồng một
tháng Sáu, mang một món hàng vào chợ hồi nửa đêm mà đi tìm. Thủ Huồn là người rất
yêu vợ. Tuy vợ chết đã ngoài mười năm nhưng hắn vẫn không lúc nào quên. Hắn bèn
giao nhà lại cho người bà con rồi làm một chuyến du lịch ra Bắc, mong gặp lại mặt
vợ cho thỏa lòng thương nhớ bấy lâu. Khi gặp vợ, Thủ Huồn không dám hỏi
vì thấy vợ ăn mặc rất đài các. Sau cùng người đàn bà ấy cũng nhận ra
được. Thủ Huồn mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ kể cho vợ nghe cảnh sống của mình
từ lúc âm dương cách biệt. Rồi hắn hỏi vợ: - Mình lâu nay làm gì?
- Tôi làm vú nuôi trong
cung vua. Cuộc đời của tôi không có gì đáng phàn nàn. Tôi có một gian nhà riêng
trong hoàng cung, cái ăn cái mặc được chu cấp đầy đủ.
Hắn
nói: - Tôi nhớ mình quá. Tôi muốn theo mình xuống dưới ấy ít lâu có
được không?
- Đi được.
Nhưng chỉ trong vài ngày là cùng, nếu quá hạn sẽ nguy hiểm.
Thủ Huồn và vợ cùng
đi. Qua mấy dặm đường tối mịt, chả mấy chốc đã đến cõi âm. Hắn rùng
mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào thành nội, qua những tên quỷ gác
cổng có những bộ mặt gớm ghiếc. Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng vào được trót lọt. Đến
một gian nhà thấp, vợ bảo chồng:- Đây là nhà bếp, đằng kia là nhà ngục,
trước mặt là cung hoàng hậu, chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi đấy là cung
vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên buồng tôi trên kia được.
Tôi sẽ kiếm cách cho chàng đi xem một vài chỗ, nhưng rồi phải về ngay.
Chiều hôm đó người vợ
về trao cho Thủ Huồn một mảnh giấy phép và nói:- Chỉ có cung vua và
cung hoàng hậu thì đừng có vào còn mọi nơi khác chàng cứ đi xem cho thỏa thích.
Hắn lượn mấy vòng
xung quanh nhà bếp rồi tiện chân đến nhà ngục. Chưa lọt khỏi cổng mà những tiếng
kêu khóc, tiếng la hét ở phía trong làm cho hắn bồn chồn. Qua mấy phòng chuyên
mổ bụng, móc mắt, cắt tay, v.v... hắn thấy đây quả là nơi hành hạ tội nhân kinh
khủng, đúng như lời đồn ở trên trần thế.
Sau cái bàn xẻo thịt
là cả một kho gông. Trong đó có một cái gông đặc biệt: nó vừa to vừa dài, làm bằng
những thanh gỗ nặng như sắt. Thủ Huồn lân la hỏi người cai ngục: - Thứ
gông này để làm gì?
- Để chờ một thằng
ác nghiệt ở trần xuống đây. Bao nhiêu những cái gông trong này đều đã có chủ cả.
Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó.
Thủ Huồn lại hỏi:- Thế
cái thằng sẽ đeo cái gông vừa to vừa dài đó là ai?
Lão cai ngục thủng
thỉnh giở một cuốn sách vừa to vừa dày chỉ vào một hàng chữ, đọc: "Hắn là
Võ Thủ Hoằng tức là Thủ Huồn". Rồi nói tiếp:- Thằng cha đó ở Đại-nam
quốc, Gia-định tỉnh, Phúc-chính huyện...
Nghe nói thế, Thủ Huồn
giật mình mặt xám ngắt. Nhưng hắn vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Hắn hỏi
thêm:- Thế nào? Hắn có tội gì?
Lão cai ngục mắt vẫn
không rời quyển sách. - Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái làm bao
nhiêu việc oan khốc đến nỗi tội ác của hắn đen kín cả mấy trang giấy
đây. Này nghe tôi đọc này: năm Ất sửu hắn sửa hai chữ "ngộ sát" thành
"cố sát" làm cho hai mẹ con thị Nhân bị chết để cho người
anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồn được mười nén vàng và mười nén bạc,
một trăm quan tiền. Cũng năm đó, hắn làm cho ông Ngô Lai ở thôn Bình-ca bị hai
mươi năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta
mười hai mẫu ruộng. Năm...
Thủ Huồn tái mặt,
không ngờ mỗi một cái cất tay động chân của mình trên kia, dưới này đều rõ mồn
một. Hắn ngắt lời đánh trống lảng.
- Thế vợ hắn có cùng
đeo gông không hở ông.
- Ồ! Ai làm người ấy
chịu chứ! Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi.
Thủ Huồn lại hỏi gặng: -Ví
thử hắn muốn hối cải thì phải làm thế nào? Lão cai ngục hạ sách xuống bàn, đáp:-
Đã vay thì phải trả! Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải cướp giật được
đó bố thí và cúng lễ cho hết đi.
Từ biệt lão cai ngục
và những hình cụ khủng khiếp, Thủ Huồn không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác
nữa. Vợ thấy chồng đòi về, lại đưa chồng ra khỏi hoàng cung của Diêm vương và
ra khỏi mấy dặm đường tối tăm mù mịt. Lúc sắp chia tay hắn bảo vợ: - Tôi
về trang trải công nợ có lẽ ba năm nữa tôi lại xuống. Mình nhớ lên chợ đón nghe!
Về tới Gia-định. Thủ
Huồn mạnh tay bố thí. Hắn tập hợp những người nghèo khó trong vùng lại, phát
cho họ tiền, lúa. Hắn đem ruộng đất của mình cúng cho làng, cho chùa, chia cho
họ hàng thôn xóm. Hắn mời hầu hết sư, sãi các chùa gần vùng tới nhà
mình cúng đơm, tốn kém kể tiền vạn. Người ta lấy làm lạ không hiểu tại sao một
tay riết róng như hắn bây giờ trở nên hào phóng một cách lạ thường. Ai xin gì
được nấy. Có những người trước chửi hắn bây giờ lại đâm ra thương hại hắn. Nhiều
người bảo nhau: - "Thứ của vô nhân bất nghĩa ấy không trước thì sau thể
nào cũng đội nón ra đi mà thôi!" hay là: - "Có lẽ hắn không con, biết
để của cũng chả làm gì nên tự làm cho vợi bớt". Thủ Huồn có nghe rất nhiều
lời đàm tiếu về mình, nhưng hắn chẳng nói gì sất, cứ việc quẳng của không tiếc tay.
Cứ như thế sau ba
năm, Thủ Huồn tính ra đã phá tán được ba phần tư cơ nghiệp. Nhớ lại lời hẹn, hắn
lại khăn gói ra Bắc tìm đến chợ Mạnh-ma. Ở đây, hắn dỗ khéo được vợ cho hắn xuống
thăm cõi âm một lần nữa.
Khi trở lại nhà ngục.
Thủ Huồn thấy quang cảnh vẫn như cũ. Lão cai ngục vẫn là lão cai ngục ba năm về
trước. Cách bố trí y hệt như xưa: cũng có nơi mổ bụng, nơi móc mắt, cắt tay:
v.v... Duy chỗ để gông thì có ít nhiều thay đổi. Bên cạnh những cái vẫn
còn nguyên hình như xưa thì lại có những cái trước bé nay đã lớn lên, có cái
trước lớn, nay nhỏ hẳn đi. Đặc biệt cái gông mà Thủ Huồn chú ý nhất thì bây giờ
đã rút ngắn lại tuy vẫn còn to và dài hơn các thứ gông thường một tý. Hắn lân
la hỏi lão cai ngục: - Cái gông để ở nơi này trước kia tôi nhớ
hình như to lắm thì phải.
- Đúng đấy! Lão
đáp. Có lẽ gần đây ở trên dương thế thằng cha ấy đã biết chuộc lỗi nên nó đã nhỏ
lại. Nếu hắn gắng hơn nữa, thì rồi sẽ có phúc lớn.
Thủ Huồn lại lên đất,
trở về Gia-định. Hắn lại làm tiếp công việc bố thí và cúng dàng. Lần này hắn
bán hết tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà cửa của mình. Hắn đến Biên-hòa dựng
một ngôi chùa lớn để cúng Phật. Hắn xuôi sông Đồng-nai để làm một việc
nghĩa cuối cùng. Hồi đó ở ngã ba sông Đồng-nai và sông Gia-định việc đi lại rất
bất tiện. Cũng vì thế mà bên kia sông Đồng-nai người ta còn ngần ngại
chưa dám di cư sang để sinh cơ lập nghiệp.
Thủ Huồn liền quyết
định ở lại đây. Hắn kết một cái bè lớn, trên bè có nhà ở, có đủ chỗ nghỉ, có sẵn
nồi niêu, đồ dùng và tiền gạo. Những thứ ấy hắn dùng để tiếp rước những người
qua lại, nhất là những người nghèo khó. Hắn cho họ trú ngụ tại bè của mình kẻ
năm ba ngày, người một đôi tháng mà không lấy tiền. Hắn làm công việc đó mãi cho
đến ngày xuống âm phủ thật sự.
Sau đó khá lâu, có lần
một ông vua tên là Đạo Quang bên Trung-quốc lúc mới lên ngôi có cho sứ sang
Việt-nam hỏi lai lịch một người ở Gia-định. Số là khi nhà vua mới sinh, người
ta thấy trong lòng bàn tay vua có mấy chữ: "Đại-nam, Gia-định, Thủ Hoằng",
nên nhà vua cần biết rõ gốc gác Thủ Hoằng là ai. Sau khi sứ giả cho biết rõ lai
lịch Thủ Huồn, vua Trung-quốc có cúng vào ngôi chùa Biên-hòa ba pho tượng vàng.
Do việc đó người ta bảo Thủ Huồn nhờ thành thực hối lỗi, chẳng những làm tiêu mất
cái gông chờ hắn ở coi âm, mà còn được Diêm vương cho đi đầu thai làm
vua Trung-quốc.
Ngày nay, một ngôi
chùa ở Biên-hòa còn mang tên là chùa Thủ Huồn: chỗ ngã ba sông Đồng-nai và
Gia-định còn gọi là sông Nhà-bè để kỷ niệm lòng tốt của Thủ Huồn đối với khách
hộ hành Nam Bắc qua con sông đó. Có câu tục ngữ:
Nhà bè nước chảy
phân hai,
Ai về Gia-định Đồng-nai
thì về.
KHẢO DỊ
Truyện trên giống với
truyện Người đi dạo âm phủ cũng do Jê-ni-bren (Génibrel) sưu tập:
Có hai vợ chồng một
người ở Nam-định, nhà giàu có lớn. Họ sinh được một cô con gái rất xinh và khôn
ngoan tên là Trần Thị Xuân. Đặc biệt là mỗi bàn tay có sáu ngón. Không may năm
nàng mười ba tuổi thì bị lên đậu trời mà chết. Thương nhớ con gái, hai vợ chồng
không thiết làm ăn gì nữa. Nghe nói ở Quảng-yên có chợ Mạnh-ma, ở đấy dương
gian và âm phủ có thể gặp nhau được, hai vợ chồng bèn tìm đến, mong được gặp
con. Họ có mang theo một cái quả bằng bạc sắm cho cô gái lúc còn sống. Nhằm
ngày mồng một tháng Sáu họ đến chợ giả bày hàng ra bán. Lát sau, người con gái
đến hàng mua trầu, trông thấy cái quả của mình liền hỏi chuyện. Cha mẹ nhận
ra con nhờ có bàn tay sáu ngón của cô và được con mời đi dạo cảnh âm phủ.
Chồng của cô là một
viện quan giám thành, đưa cha mẹ vợ đi coi các cửa ngục. Khi đến cửa
thứ nhất, hai vợ chồng thất kinh thấy tên tuổi của họ có yết ở cửa ngục. Họ vờ
hỏi chàng rể tại sao có tên yết ở cửa, thì hắn bảo: - "Hai người đó ở
dương gian cho người ta vay nợ một lớp vốn năm bảy lớp lời làm cho người ta phải
bán vợ đợ con nên yết lên để chờ làm tội". Hai vợ chồng lại hỏi: - "Vậy
chúng nó muốn khỏi tội thì phải làm thế nào?" - "Phải làm chay bố thí
cho hết của đó, mới mong khỏi được". Trở về làng cũ hai vợ chồng dốc của cải
ra đón sư làm chay và mạnh tay bố thí. Sau khi hết của họ lại lần mò ra
chợ Mạnh- ma tìm con gái và định đòi xuống âm phủ xem thế nào. Nhưng cô gái vừa
gặp cha mẹ đã bảo: - "Cha mẹ đã sạch tội rồi, không
còn thấy tên ở cửa ngục nữa. Vậy chả cần xuống làm gì".
Cả hai truyện trên
có lẽ chịu ảnh hưởng từ một số phật thoại ngoại lai trong đó có truyện Mục
Liên thăm mẹ ở địa ngục khá phổ biến ở Việt-nam.
Phần cuối truyện Thủ Huồn tương tự với Sự tích sư ông Huyền Chân và Truyện
bà Hiếu.
Sự tích sư ông Huyền
Chân: Xưa, ở chùa Quang-minh, xã Hậu-bổng (Hải- dương) có một hòa thượng nổi
tiếng chân tu. Lúc về già, Phật Di-đà hiện lên báo mộng rằng: - "Nhà ngươi
có công với đạo Phật, kiếp sau sẽ cho giáng sinh làm vua Trung-quốc". Khi
hòa thượng chết, đệ tử vâng lời thầy viết vào vai mấy chữ "Hòa thượng Huyền
Chân chùa Quang-minh".
Về sau có lần sứ bộ
Việt-nam sang Trung-quốc. Khi yết kiến, chánh sứ Nguyễn Tự Cường được vua Minh
Hy Tông cho biết là mình sinh ra trên vai có mấy chữ, rửa mấy cũng không sạch,
không biết đầu đuôi vì sao. Nguyễn Tự Cường về dò hỏi mới biết câu chuyện sư
Huyền Chân, vội mang nước giếng chùa Quang-minh sang cho vua Trung-quốc. Kết quả,
nước rửa đến đâu chữ mất đến đấy.
Truyện bà Hiếu: Ở
làng Linh-chiểu Đông (Gia-định) có người đàn bà tên là Hiếu nhà giàu, không có
con cái. Bà bèn lập chùa Hòa-nghiêm bao vây một khoảng đất rộng để
cho kẻ nghèo chôn cất làm phúc. Nhờ có công đức đó nên khi chết được đầu thai
làm con gái vua Trung-quốc. Công chúa khi đẻ ra có chữ son "Gia-định,
Linh-chiểu Đông, chùa Hoa-nghiêm" vua Trung-quốc cho là sự lạ, gửi giấy
sang hỏi bên ta. Sau đó vua sai cúng vàng bạc vào chùa và xin đưa bài vị sang để
thờ. Làng không chịu, chỉ làm một bài vị khác đưa sang cho vua Trung-quốc.
Xem thêm các truyện
khác tại đây:
-----