Ngày xưa có một
gia đình nọ có một người con gái xinh xắn nết na. Lúc nàng lớn lên có một người
học trò nghèo họ Đỗ đưa trầu cau đến hỏi làm vợ. Chàng là tay văn hay chữ tốt,
tính nết rất hiền lành. Thấy thế, người cha cô gái vui lòng hứa hôn. Cô gái
sung sướng được người chồng xứng đôi vừa lứa. Lễ cưới vừa xong thì cha nàng nhuốm
bệnh qua đời.
Cô gái về nhà chồng
một niềm trinh thuận. Chồng là người mồ côi cha mẹ. Gia tài chỉ có một đám vườn
nhỏ với mấy quyển sách, nhưng hai vợ chồng son sống trong một bầu không khí hòa
nhã yêu thương. Chồng đọc sách, vợ quay tơ, thú gia đình tưởng không ai
hơn được.
Đột nhiên ít lâu sau
đó người chồng mắc bệnh hủi. Người vợ lo lắng tìm thầy chạy thuốc. Nàng bán
luôn nữ trang của mình, bán cả đám vườn đang ở để dùng vào việc chữa chạy cho
chồng. Nhưng bệnh mỗi ngày một nặng, cho đến lúc hết phương điều trị. Chân tay
người chồng cứ sưng lên và bắt đầu lở loét. Không một ai dám đến gần. Duy chỉ
có người vợ ngày ngày hầu hạ chu tất không chút quản ngại. Thấy thế, anh chàng
thương vợ quá. Chàng cho phép vợ ly dị để mặc mình với số mệnh. Nhưng
người vợ nhất định không nghe. Nàng nói: - Vợ chồng là nghĩa lâu dài,
còn bệnh tật của chàng chẳng qua là sự không may. Thiếp xin cùng chung số phận
với chàng, không đi đâu cả.
Nhưng bệnh của người
chồng ngày một đáng sợ hơn. Luôn luôn chồng cố khuyên vợ trở về với mẹ đẻ để khỏi
vì mình mà khổ thân, tuy vậy vợ vẫn kiên quyết ở lại. Một hôm, để cho vợ khỏi
chịu thiệt thòi, chồng cất lẻn ra đi. Chồng để lại cho vợ một phong bì thư, nói
mình sẽ không bao giờ trở về nhà nữa và cho phép vợ tự do đi lấy chồng khác.
Sau khi chồng đi biệt,
người vợ chảy không biết bao nhiêu là nước mắt. Mẹ đẻ của nàng khuyên con
đi lấy chồng khác nhưng nàng quyết ở vậy đến già.
Ba năm trôi qua, tin
tức của chồng vắng bặt. Nhiều người đoán rằng chàng đã quyên sinh cho khỏi đau
khổ. Rồi đó, người vợ trả nhà cửa lại cho họ hàng nhà chồng, trở về với mẹ đẻ,
lập bàn thờ coi như chồng đã chết. Nhưng mẹ nàng luôn luôn bảo nàng: -
Con thủ tiết với chồng như thế là trọn đạo. Con không nên bỏ phí xuân xanh một đời.
Thấy nàng xinh đẹp lại
có đức hạnh, nhiều người muốn hỏi làm vợ, trong đó có một người học trò họ Nguyễn.
Tin qua mối lại xôn xao làm cho nàng không tự chủ được. Hơn nữa mẹ nàng có ý ép
con, bà con thân thích cũng hết lời khuyên dỗ. Cuối cùng, nàng đành nhận lời đi bước nữa cùng với anh chàng họ Nguyễn.
Về ở với chồng mới được ba năm, nàng sinh được hai người con trai. Hai vợ chồng
rất tương đắc. Người học trò họ Nguyễn sau đó thi đậu tiến sĩ và được bổ làm án
sát Sơn-tây.
Năm ấy, Sơn-tây và
các trấn lân cận mất mùa to, giá thóc gạo lên cao vùn vụt. Khắp nơi đều
có người chết. Đường sá, chợ búa đầy những đoàn người đói khổ đi kiếm miếng ăn.
Quan án được lệnh đi phát chẩn cho dân đói.
Lại nói chuyện anh
chàng họ Đỗ từ khi trốn vợ ra đi, nhất quyết không trở về quê hương nữa. Chàng
không muốn vì mình làm khổ đời một người đàn bà. Chàng cứ đi lang thang nay
đây mai đó, sống bằng nghề bị gậy. Cứ thế sau năm năm, bệnh của chàng
vẫn như cũ và chàng vẫn sống một cuộc đời đơn độc và đau khổ. Hôm ấy nghe tin
có cuộc phát chẩn, chàng lần mò tìm tới, nhập vào đội quân lĩnh chẩn.
Bọn lính lần lượt phát gạo hết hàng này sang hàng khác. Khi sắp sửa được lĩnh,
chàng kêu lên: - "Tôi là học trò yếu đuổi tàn tật, không rá không mùng,
không nồi không niêu nên không muốn xin gạo, chỉ muốn xin một ít tiền cho tiện...".
Nghe hắn nói thế, quan án cho gọi tới hỏi mấy câu về văn chương, quả
nhiên anh chàng bề ngoài rách rưới tiều tụy nhưng đối đáp rất trôi chảy, thơ
làm ra thao thao bất tuyệt. Sẵn có tình yêu người tài, ông bèn đặc biệt lấy tiền
ra cho, có phần hậu hơn những kẻ khác.
Khi về dinh, ông ta
thuật chuyện vừa rồi cho vợ hay. Nghe tả hình dạng, người đàn bà ngờ rằng đó là
người chồng cũ. Nàng ra chợ tìm cách đứng nấp để xem mặt, thì đúng là người chồng
ngày xưa. Tự nhiên lòng thương chồng cũ nay lại bừng bừng bốc lên. Nàng phải nuốt
thầm những giọt nước mắt vì mình đang ở vào một tình thế khó xử. Suy đi nghĩ lại
mãi, cuối cùng nàng dùng lời nói khéo cố khuyên chồng mới đưa "người học
trò khó mà có tài" đó về dinh, cho ở một gian lều sau trại. Như thế vừa
làm được một việc nghĩa vừa có người làm bạn văn chương. Được chồng mới ưng thuận,
nàng sung sướng vô hạn. Từ đó ngầm sai người hầu chu cấp chăm nom rất tử tế.
Nhưng nàng không bao giờ để lộ một hành động gì cho chồng biết và cũng không
bao giờ cho người chồng cũ thấy mặt.
Một hôm vào khoảng
đêm khuya, người chồng cũ một mình đau bụng đi tả. Nhân khát quá, chàng bèn lần
ra một cái chum ở gần trại múc nước uống. Hôm sau, chàng mới biết là mình uống
lầm phải một thứ nước trong đó có một con rắn trắng chết. Nhưng thật không ngờ,
một thời gian sau những mụn hủi lở tróc bay hết và dần dàn bệnh tự nhiên lành hẳn,
da thịt của chàng trở lại trắng trẻo như xưa.
Rồi đó, chàng lại ôn
luyện kinh sử và nhờ có sự giúp đỡ hậu tình của quan án, chàng lại quẩy lều chiếu
đi thi.
Tất cả những việc đó
xảy ra làm cho người đàn bà vừa mừng vừa đau khổ. Nàng thấy mình không thể chịu
đựng âm thầm mãi như vậy được. Khi nghe tin chồng cũ thi đậu tiến sỹ sắp sửa
vinh quy, nàng viết một bức thư rất dài kể hết nông nỗi của mình cho người chồng
mới biết. Nàng xin chồng tha lỗi về sự giấu giếm của mình bấy lâu nay. Có hai đứa
con trai, nàng xin một đứa cho làm con nuôi ông nghè mới. Đoạn nàng trốn chồng
con, bỏ đi biệt.
Hết.
KHẢO DỊ
Người Hải-dương kể
truyện này có khác một vài tình tiết:
Khi chồng bỏ đi biệt,
người vợ cũng bỏ nhà đi tìm. Sau một thời gian tìm kiếm không ra, một nho sĩ mà
nàng gặp cho biết mình có thấy xác một người hủi trôi sông, vậy chắc là đã chết.
Đoạn bảo nàng: - "Thôi hãy cùng tôi lập một gia đình mới". Nàng đáp:
- "Cám ơn, để tôi để tang chồng ba năm cho trọn đạo". Sau ba năm,
chàng nho sĩ đến nhà nhắc lại lời hẹn. Nàng cảm kích nhận lời. Hai bên trở
thành vợ chồng. Sau đó chồng cũng thi đậu làm quan.
Đoạn sau cũng nói đến
việc nàng tình cờ tìm được người chồng cũ, bấy giờ là ăn mày rách rưới
ở một chợ nọ. Vẫn không ra mặt, nàng chỉ nói khéo để chồng mới đưa người
"hàn sĩ" đó về ở một gian nhà cất sau huyện đường để tiện hỏi han
nghĩa lý sách vở. Đặc biệt nàng có cho đào một cái giếng riêng cho chồng cũ
dùng. Không ngờ giếng có mạch nước tiên, chàng uống vào tự nhiên lành bệnh và
cuối cùng đi thi đậu trạng. Đứng trước cảnh ngộ khó xử, một hôm nàng bèn nhảy
xuống giếng tự tử. Chồng mới, rồi tiếp đó chồng cũ hết sức xúc động lần lượt nhảy
xuống chết theo. Không ngờ giếng tiên biến bộ ba thành thần và cuối cùng được
Ngọc Hoàng phong làm Táo quân.
Xem thêm các truyện
khác tại đây:
-----