Có một nhà sư tên là
Diệu Kế trụ trì ở một ngôi chùa lớn làng Bích-khê. Sư ta vốn ít chữ
nhưng được cái sáng dạ, trải qua những ngày cạo đầu cắp níp đi theo các bậc tu
hành cũng võ vẽ được ít nhiều kinh kệ. Sống lâu lên lão làng, nhờ chuyên cần gõ
mõ tụng kinh, nên chẳng mấy chốc được leo lên hàng sư bác. Từ đó Diệu Kế đã được
dân làng vùng này vùng khác đón về thờ Phật cai quản chúng tăng. Qua nhiều lần
ăn mày lộc Phật ở rất nhiều chùa, Diệu Kế đã nắm được cái chân lý: cuộc
đời tu hành của mình chẳng qua cũng là một cách mưu sinh. Vậy thì tội gì mình
theo "năm điều răn" cho mệt xác. Vì vậy, về mặt đức hạnh,
Diệu Kế tuy không phải là hạng hổ mang, nhưng cũng chẳng phải thuộc hàng chân
tu. Thỉnh thoảng sư ta cũng biết lén lút tìm cách làm vợi bớt những món tiền
quyên cúng của thập phương đang ngộn lên ở tráp.
Ở gần chùa có một
người thợ giày cũng trạc tuổi và cùng khổ người khổ mặt với Diệu Kế. Hai người
dàn dần quen nhau rồi trở nên một đôi bạn nối khố. Khi đã tương đắc, người thợ
giày thường mang rượu thịt vào tăng phòng vào những lúc vắng vẻ, rồi cả hai
đóng cửa lại, chén tạc chén thù. Họ tỉ tê kể cho nhau nghe những câu chuyện vượt
ra ngoài mảnh vườn và mái chùa nhà Phật. Được cái người thợ giày am hiểu việc đời
nên Diệu Kế ta rất thích. Mỗi khi thấy ông bạn túng thiếu, Diệu Kế thường phóng
tay chu cấp khi năm quan ba quan không biết tiếc. Tuy nhà sư không
bao giờ xao nhãng việc tụng kinh gõ mõ nhưng bọn hào lý trong làng cũng chẳng
phải không có kẻ ghét ghen. Họ ngờ rằng về mặt kinh kệ, vốn liếng của
sư ông hình như không có bao nhiêu. Hơn thế, mỗi lần nghe sư ông tụng kinh, thấy
chỉ ê a suốt buổi, điểm vào những câu lạc lõng, tựa hồ không phải là kinh Phật. Mặc dầu
vậy, họ cũng chả biết gì nhiều về tiếng kinh câu kệ vốn rất khó hiểu, nên chưa
có cách nào để tìm cho ra sự thật.
Hồi bấy giờ ở một
ngôi chùa phương Nam có một vị hòa thượng nổi tiếng đạo học và đức hạnh. Vị hòa
thượng này đã từng tu luyện rất nhiều năm và từng sang đất thánh. Vào lúc này bậc
đại đức ấy được vua ban tước quốc sư, cho phép đi chơi khắp mọi cảnh chùa trong
nước. Tuy tuổi già, hòa thượng chuyên ăn chay nằm đất: lại có điều đặc biệt là
do thuộc phái "vô ngôn", nên người nhất thiết không nói năng gì với
ai, chỉ khi cần lắm mới làm dấu hiệu, hoặc viết ý nghĩ của mình lên mặt giấy.
Nghe tin bậc đại đức
này sắp qua làng mình, bọn hào lý Bích-khê bèn sửa soạn một cuộc đón rước trọng
thể tại chùa và nhân thể nhờ hòa thượng kiểm tra hộ sư ông Diệu Kế về mặt đạo
học. Nếu quả đúng như mối ngờ bấy lâu thì họ sẽ mời sư đi chỗ khác.
Nghe tin này, Diệu Kế
rất lo. Cuộc khảo hạch này chắc chắn sẽ làm lòi cái dốt của mình và có thể nếu
không bị đuổi thì cũng mất mặt trước thiện nam tín nữ. Than ôi? Còn
đâu là những ngày ngồi ung dung hưởng hàng chục mẫu hoa lợi và bao nhiêu tiền của
thập phương. Nghĩ vậy, Diệu Kế quyết vắt óc tìm cách để ra khỏi cảnh khó khăn.
Sực nhớ tới ông bạn nối khố thường tự xưng là người túc trí đa mưu. Diệu Kế bèn
nhắn bạn đến chùa để cùng mình bàn tính. Sau khi nghe thủng câu chuyện, người
thợ giày liền an ủi:
- Tưởng gì chứ
việc ấy thì để mặc tôi lo liệu. Tôi sẽ thay bạn trả lời tất cả những câu khảo hạch
của lão già ấy.
- Nhưng làm sao
mà thay được, - Diệu Kế hỏi.
- Khó gì. Vì
cùng trạc người như bạn, tôi sẽ kín đáo lẻn đến đây đúng vào hôm lão già ấy tới
chùa. Chỉ cần bạn đòi bọn hào lý cho được một mình đối diện với lão ấy ở tăng
phòng đóng kín cửa, không một người thứ ba nào cùng dự là ổn. Tôi sẽ từ chỗ nấp
bước ra sắm vai của bạn. Tôi cam đoan sẽ chu toàn mọi việc. Bạn đừng lo gì cả!
Nghe người thợ giày
hiến kế, sư ông Diệu Kế có phần vững tâm. Mấy ngày sau, vị hòa thượng quả nhiên
ghé vào chùa theo lời mời của bọn hào lý, và gật đầu nhận lời họ về việc khảo hạch
sư ông. Khi cửa tăng phòng đã cài then, dưới ánh đèn le lói người thợ giày đầu
mới cạo bóng nhoáng, mình mặc áo cà sa từ bệ bước ra trước mặt hòa thượng để chịu
sự thử thách.
Cuộc khảo hạch bắt đầu.
Vị đại đức không hề hé răng, chỉ thong thả đưa bàn tay phải sờ lên đầu mình. Thấy
vậy, ngươi thợ giày thình lình co cẳng trái đạp mạnh xuống nền tăng phòng một
cái "thịch". Tiếp đó vị đại đức ngửa mặt lên trời hồi lâu rồi sờ tay
vào nách. Để trả lời, người thợ giày lại quờ cánh tay mình ra đằng sau và đấm
vào lưng mấy cái. Tiếp đó, vị đại đức mỉm cười và giơ ba ngón tay ra trước mặt.
Người thợ giày liền trợn mắt cũng giơ bàn tay giăng đủ năm ngón lên trời.
Sau đó, vị đại đức gật
gù, không làm dấu hiệu gì nữa bước ra khỏi tăng phòng, trong khi người thọ giày
lại trở về chỗ nấp cũ.
Trước khi từ giã
làng Bích-khê, vị hòa thượng mà tên tuổi được mọi người tôn kính,
không quên viết mấy câu vào mảnh giấy trao cho bọn hào lý, nói rõ kết quả cuộc
khảo hạch vừa rồi. Đại ý trong giấy viết:
"Từ thôn quê đến
thị thành, ta chưa từng thấy có người nào thông hiểu nghĩa lý đạo Phật thâm
thúy như sư ông Diệu Kế. Không những sư ông hiểu rõ những dấu hiệu ta đưa
ra hỏi, mà còn dùng dấu hiệu để đối đáp với ta, y như những vế biến
ngẫu tài tình. Thoạt đầu ta muốn nói: "Luôn luôn trong đầu phải tâm niệm lời
dạy của đức Thích Ca" thì sư ông đã trả lời: "Cần phải giẫm xuống dưới
chân những cám dỗ của Ma vương". Ta lại muốn nói: "Con hạc cắp dưới
cánh lời cầu nguyện mang lên thượng giới". Sư ông trả lời: "Con rùa
ghé tấm lưng đội bia đứng trước chùa". Cuối cùng ta giơ ba ngón tay để nói
"Tam quy". Sư ông giơ cả bàn tay để đối lại là "Ngũ giới". Đó là
điều không phải những kẻ đạo học tầm thường có thể trả lời một cách nhanh gọn
được. Sư ông Diệu Kế quả là một ngôi sao trong rừng thiền chúng ta".
Đọc xong, bọn hào lý
làng Bích-khê cúi chào vị hòa thượng già, rồi sau đó trở về chùa xin ra mắt sư
Diệu Kế. Bọn họ hết lời xin lỗi:
- Chúng tôi quả
thật người trần mắt thịt, không biết được đạo học của hòa thượng sâu rộng như
biển. Chẳng qua chỉ vì có một vài người xấu thói thêu dệt điều này tiếng nọ vu
cho hòa thượng nên buộc làng chúng tôi phải rước bậc đại đức đến chùa để bày cuộc
thử thách. Giờ đây tất cả mọi nghi ngờ đều đã tiêu tan. Xin hòa thượng miễn chấp
cho lũ ngu độn này.
Sau khi bọn hào lý
đã ra về hết, người thợ giày bèn ra khỏi chỗ nấp. Diệu Kế hỏi:
- Bạn hãy mau mau
cho biết bạn đã trả lời như thế nào về những câu hỏi của ông già ấy làm cho
danh tiếng của tôi bỗng nổi lên như cồn trước bọn hào lý vậy?
Người thợ giày đáp:
- Có gì đâu.
Thoạt đầu lão già ấy chỉ tay lên đầu ý hỏi tôi có biết làm mũ ni hay không? Tôi
đạp chân xuống đất để trả lời rằng tôi chỉ biết đóng giày mà thôi. Thế
rồi lão lại chỉ vào nách để hỏi tôi có thứ da nào mềm như da nách để thửa một
đôi. Tôi chỉ vào lưng để nói rằng dạo này chỉ còn thứ da dày như da ở lưng,
nhưng dùng để đóng giày cũng khá bền tốt. Thế rồi ông lão quyết định thửa một
đôi nhưng lại mà cả có ba quan. Tôi nhất định không chịu, đòi phải có đủ năm
quan mới làm. Thế là ông lão bỏ đi ra, chắc ông lão bủn xỉn chê đắt
không thửa.
Hết.
KHẢO DỊ
Một dị bản có tên
là Quan huyện và người thợ giày:
Xưa có quan huyện mới
bổ đến huyện nọ, thường xuống các làng hành hạt. Tính quan hay thơ. Đến một
làng hỏi hương chức có ai biết thơ hay câu đối gì thì đối đáp cho vui. Hương chức
trả lời: - "Chúng tôi đều dốt nát, may ra hòa thượng trên chùa có thể biết".
Quan bèn đi viếng chùa. Hòa thượng bối rối vì không làm thơ bao giờ. Một người
thợ giày ở trọ trong chùa lãnh phần làm thơ với quan. Ở đây người thợ giày cũng
cải trang làm sư nhưng làm bộ ít nói. Cũng như truyện trên, hai bên đối đáp bằng
dấu hiệu: quan vỗ đầu một cái. Người thợ giày đáp lại bằng một cái giậm cẳng.
Quan chỉ vào bụng. Người thợ giày vỗ vào đít. Quan giơ năm ngón tay, người thợ
giày giơ mười ngón. Quan quày quả ra về tấm tắc khen hòa thượng giỏi thơ. Cai tổng
hỏi vì sao hai bên chỉ làm dấu tay dấu chân mà lại biết hay thơ. Quan đáp: -
"Các ông chưa hiểu, để tôi nói cho nghe: Tôi vỗ đầu ý nói: "Thiên cao
đẳng đẳng". Hòa thượng giậm chân nói "Địa hậu trùng trùng". Tôi
chỉ bụng là "Chỉ phúc thiên hạ phục". Hòa thượng vỗ đít là "Tọa
thượng thái dân an". Tôi đưa năm ngón là "Ngũ bách la hán". Hòa
thượng giơ mười ngón là "Thập loại cô hồn".
Sau khi quan về, hòa
thượng hỏi anh thợ giày, thợ giày nói: "Có gì đâu, hồi nãy quan vỗ đầu là
hỏi tôi có biết làm nón không. Tôi giậm chân đáp rằng chỉ biết đóng giày thôi,
quan chỉ bụng để hỏi da bụng đóng có tốt không, tôi vỗ đít để trả lời: da mông
đít đóng tốt hơn. Thế rồi quan trả năm đồng một đôi. Tôi cho quan biết có được
mười đồng mới đóng. Quan chê đắt bỏ về".
Một truyện
khác, Trạng ếch cũng có nội dung ít nhiều gần gũi:
Xưa có một người câu
ếch bắt được con ếch có viên ngọc, anh dùng ngọc chữa khỏi bệnh đau mắt của vua
nên được làm quan. Nhờ tài coi chân ếch biết trước trời mưa, anh vâng mệnh vua
cầu đảo ứng nghiệm vì vậy được vua phong là trạng: người ta gọi là Trạng Ếch.
Trạng Ếch phụng mệnh
đi sứ Trung-quốc. Trong một bữa tiệc, một viên quan Trung-quốc thử tài sứ giả
các nước, bèn giơ bốn ngón ra ý muốn ra vế đối: "Tứ di lai tân". Các
sứ giả ngơ ngác không hiểu thế nào. Về phần Trạng của ta tưởng y hỏi trên mâm
có một đĩa bốn chiếc bánh ăn có hết được không, nên giơ tám ngón tay lên ý nói
"tám chiếc như thế ta ăn cũng hết". Viên quan đoán là Trạng đối lại
"Bát phương tiến cống", nên tỏ ý khâm phục. Viên quan lại giơ ngón
tay trỏ chỉ vào bụng, ý ra vế đối "Hung trung binh giáp"- Trong khi
các sứ giả kia chưa trả lời, thì Trạng Ếch tưởng viên quan chế mình
ăn lắm thì nứt bụng ra, bèn chụm bàn tay lại và giơ lên trời, có ý bảo
"bánh nhỏ vừa bằng lòng bàn tay có gì mà đến nứt bụng". Nhưng viên
quan Trung-quốc lại ngỡ là Trạng đối "Chưởng thượng kinh luân" nên phục
lăn, y bèn vào tâu cho vua biết. Vua Trung-quốc bèn phong Trạng làm "Lưỡng
quốc Trạng nguyên".
Người Ả-rập (Arabes)
có truyện Ngôn ngữ của những dấu hiệu cũng là một dị bản.
Một ông vua một nước
Hồi giáo, nghe tin vua Hy-lạp (Grèce) nước láng giềng Thiên chúa giáo chuẩn bị
đem quân đến xâm lược, bèn định sai một sứ giả có tài ăn nói đến cầu hòa. Vua hỏi
các đại thần xem nên cử ai. Người nào cũng giới thiệu một người mà mình
cho là giỏi nhất, trừ một đại thần làm thinh. Vua hỏi người ấy: - "Sao nhà
người lại im lặng?". Đáp: - "Vì những người được tiến cử đều không
làm nổi việc ấy". - "Theo nhà người thì cử ai?". Đại thần chỉ
vào một người nói: - "Đây, người này!". - "Nhà người muốn nhạo
ta ư, dám đề cử một người ít miệng lưỡi như thế". - "Với người ấy,
tôi đoán rằng có thể làm nổi sứ mệnh". Cuối cùng vua nghe lời. Vua Hy-lạp
khi nghe nói đến tên vị sứ giả, thì bảo riêng người hầu của mình:
"Đó là một vị lớn
nhất trong những người đạo Hồi, ta sẽ có cách thử hắn trước khi tiếp". Lúc
sứ giả vào, vua chỉ một ngón tay lên trời. Dùng ngón tay của mình, sứ giả chỉ
lên trời rồi lại chỉ xuống đất. Vua giơ ngón tay chỉ vào mặt sứ giả, sứ giả giơ
hai ngón tay chỉ vào mặt vua. Vua lấy một quả ô-liu ở dưới nệm đưa
cho xem, sứ giả móc túi lấy quả trứng đưa ra. Bấy giờ vua làm dấu chữ thập, mời
sứ giả ngồi một cách kính nể, rồi mới hỏi mục đích đi sứ và sau đó thương nghị
mọi việc chóng vánh với sứ giả. Sau khi sứ giả ra về, đình thần hỏi vua về những
dấu hiệu, vua nói: - "Chưa bao giờ ta thấy một người thông minh như thế.
Ta chỉ lên trời muốn nói: - "Chúa ở trên các tầng trời". Hắn chỉ xuống
đất ý nói:
- "Chúa
cũng ở đấy nữa". Ta chỉ vào hắn muốn nói: - "Anh không biết mọi người
có một nguồn gốc chung là A-đam ư?" Hắn giơ hai ngón là nói: -
"Cả A- đam và E-va". Ta lấy ra một quả ô-liu để nói: - "Cái này
lạ biết chừng nào!" Hắn đưa ra quả trứng là nói: - "Cái này còn lạ
hơn vì nó ra từ một sinh vật". Cho nên ta dừng lại, vì chừng ấy cũng đủ biết
là nó thông hiểu". Còn sứ giả khi về kể chuyện lại cho vua: - "Tôi
không thấy có người nào tỏ ra u mê và thô bạo như vua Hy-lạp. Khi tôi đến, ông
ta nói: - "Ngón tay ta sẽ chộp anh và bắt anh đi". Tôi trả lời: -
"Tôi cũng bắt ông bằng tay tôi và cho ông xuống đất đen". Ông ta lại
tiếp: - "Ta móc mắt mày với ngón tay ta". Tôi trả đũa lại: -
"Tôi cũng móc mắt ông với hai ngón". Rồi đó ông ta lại nói: -
"Ta không có gì cho anh cả trừ quả ô-liu này còn thừa trong bữa ăn của
ta". Lập tức tôi đối lại; "Thế thì tôi còn hơn ông vì tôi thừa một quả
trứng trong bữa ăn sáng, vậy tôi xin biếu ông". Thế là ông ta sợ, phải giải
quyết công việc cho tôi.
Xem thêm các truyện khác tại đây:
-----
Comments
Post a Comment